

Nguyễn Ngọc Khánh
Giới thiệu về bản thân



































Câu 1:
Chắc hẳn ai ai trong chúng ta cũng đã từng miệt mài tìm lời giải đáp cho câu hỏi rằng làm sao để có thể thành công, có thể sống một cuộc đời như bản thân luôn ngày đêm mơ ước. Tuy nhiên, có lẽ chúng ta đã quên mất đi rằng bên cạnh sự nỗ lực vất vả ngày đêm, những tháng ngày miệt mài bên từng trang sách thì còn có một điều nữa vô cùng quan trọng và cần thiết đó chính là phải biết chủ động, biết nắm lấy những cơ hội trong cuộc sống. Chủ động không chỉ là việc nắm bắt cơ hội, mà còn là khả năng tự định hướng, lập kế hoạch và hành động để đạt được mục tiêu. Người sống chủ động luôn biết mình muốn gì, không ngại khó khăn, thử thách và sẵn sàng chịu trách nhiệm cho quyết định của mình. Người chủ động luôn tìm tòi, sáng tạo, không ngừng học hỏi và nâng cao năng lực. Họ không chờ đợi cơ hội đến, mà tự tạo ra cơ hội cho mình. Lối sống chủ động giúp chúng ta kiểm soát cuộc đời mình, không để bị cuốn theo dòng chảy của hoàn cảnh. Chủ động cũng giúp chúng ta nhận diện và nắm bắt cơ hội trong cuộc sống cũng như đối diện với những khó khăn một cách đầy tự tin. Một ví dụ điển hình cho sự chủ động đó chính là trong thời kì dịch bệnh covid 19 diễn ra, khi mà nhà nhà người người đều bị cách ly, những cơ quan nhà nước như trường học, bệnh viện thì phải đóng của và hs thì không được đến trường. Thế nên, nhiều học sinh, sinh viên đã chủ động tìm kiếm các phương pháp học tập mới, tham gia các lớp học online để không bị gián đoạn việc học. Chính sự chủ động ấy đã giúp họ vượt qua thử thách và vẫn tiếp tục tiến bộ dù trong thời gian khó khăn. Nói tóm lại, chủ động là một đức tính vô cùng quan trọng và cần thiết vậy nên mỗi người chúng ta hãy rèn luyện cho mình đức tính này nhé!
câu 2:
Không phải ngẫu nhiên mà nhà thơ Lê Quý Đôn từng quan niệm: “Trong bụng không có ba vạn quyển sách, trong mắt không có cảnh núi non kì lạ của thiên hạ thì không thể làm thơ được.”. Thiên nhiên luôn là thứ chất liệu được ví như chất vàng mười mà người nghệ sĩ luôn kiếm tìm để họa nên những bức tranh thi ca đầy sắc màu. Bài thơ “Cảnh ngày hè” chính là minh chứng đại diện cho những bức tranh ấy, nơi đại thi hào Nguyễn Trãi thả mình vào thiên nhiên, mở ra cánh cửa tâm hồn với tình yêu tự nhiên đất nước và tấm lòng yêu nước thương dân của mình.
Giữa những phồn tạp của buổi chợ phiên văn chương Nguyễn Trãi hiện lên như một lãng khách đặc biệt. Ông không chỉ là một anh hùng dân tộc, người được UNESCO vinh danh là Danh nhân văn hóa thế giới mà còn là một nhà văn, nhà thơ kiệt xuất với những đóng góp sâu sắc cho nên văn học Việt Nam, tiêu biểu nhất có thể kể đến là áng thiên cổ hùng văn: “Bình Ngô Đại Cáo”. Bài thơ “Cảnh ngày hè” thuộc chùm thơ “Bảo kính cảnh giới” (Gương báo răng mình) trong tập thơ “Quốc âm thi tập” nổi tiếng viết bằng chữ Nôm. Bài thơ được ước đoán là sáng tác khi ông xin về trông coi chùa Tư Phúc ở Côn Sơn, vừa thể hiện tâm hồn nghệ sĩ vừa thể hiện tình yêu cuộc sống và tấm lòng thương dân của thi nhân.
Đến với những dòng thơ đầu tiên của thi phẩm là bức tranh cuộc sống khi lui về ở ẩn do chính Nguyễn Trãi phác họa nên. Khung cảnh thoạt tiên hiện liên với hình ảnh một Ức Trai với tâm thế an nhàn trong giây phút nhàn rỗi: “Rỗi hóng mát thuở ngày trường”. Bậc trung quân ái quốc của Đại Việt một đời quên mình vì dân vì nước ấy lại mà có những giây phút hiếm hoi thả mình “hóng mát” trong chuỗi “ngày trường”. Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn xen lục ngôn - có thể xem là biến thể của thể thơ thất ngôn bát cú đường luật, thế nhưng người thi sĩ kiệt xuất ấy lại vẫn đem đến cảm giác quen thuộc khi đọc thơ thất ngôn bát cú. Câu thơ đầu tiên có chuỗi lời ngắn với sáu chữ thế nhưng mỗi tiết tấu lại dài, số nhịp dồn lại nhưng mỗi nhịp thì trải dài ra. Cái ngữ điệu khác biệt ấy nó thể hiện tình điệu dường như cũng trái chiều: vừa thong dong những lại vừa hối thúc. Một người say mê việc nước như Nguyễn Trãi thật khó mà cảm nhận về cái dài ngắn của ngày, có phải vì thế mà chữ “ngày trường” gợi ra những ngày nhàn cư mà chẳng thật thoải mái trong tâm hồn khi thoát ra khỏi chốn triều đường của Ức Trai chăng? Trong cái an nhàn thong dong những ngày ở ẩn lại toát lên cái tâm thế thường trực của một bận lương quân. Diệp Tiếp từng nói: “Thơ là tiếng lòng”. Và tiếng lòng của Nguyễn Trãi ở những câu thơ tiếp theo lại thể hiện tình yêu thiên nhiên vốn có trong thơ ông:
“Hòe lục đùn đùn tán rợp trương.
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tịn mùi hương.”
Trật tự không gian đi từ cao xuống thấp, điểm nhìn di chuyển từ tầng không xuống ao sen giúp độc giả nhìn thấy bức hoạ ngày hè của cảnh vật thật đầy đủ.Ba dòng thơ đã chấm phá nên bức tranh ngày hè tràn đầy sức sống, hài hòa mà mãnh liệt. Sự bao phủ của tán xanh cây hòe trong cả không gian cho thấy sức sống tiềm tàng mạnh mẽ ở tầng cao thiên nhiên. Di chuyển điểm nhìn xuống dưới hiên nhà theo dòng thơ của tác giả là màu đỏ hoa lựu, không lặng lẽ tô son điểm sắc, không lập lòe sáng dậy lên vài đốm lửa, mà đồng loạt tuông trào chất đỏ tựa pháo hoa. Hương sen ở dưới ao cũng dậy lên lan ra khắp không gian. Cảnh vật trong bài thơ không tỉnh mà động, thể hiện sự dồi dào sức sống qua các động từ mạnh được tác giả sử dụng: “đùn đùn”, “phun”, “tịn”. Động thái mạnh mẽ kết hợp với những gam màu sôi nỗi làm dậy nên sức sống của tự nhiên trong thời kì hoàn thịnh của đất nước. Người thi sĩ vô tình vẽ nên sự vận hành thôi thúc nhộn nhịp vô hình trong tự nhiên, sự liên tiếp theo trật tự từ trên xuống thấp của cảnh vật tạo nên nhịp độ khẩn trương trong cảnh khoe sắc phô hương của cảnh vật vô tình lại là sự khẩn trương bất nhàn trong lòng người Nguyễn Trãi.
Dõi theo dòng bút của nhà thơ, ta thấy ăn nhập với thiên nhiên rực rỡ là đời sống rộn ràng vội vã. Bức tranh ngày hè vốn tràn ngập màu sắc và mùi hương nay lại được tô đậm thêm sức sống bở âm thanh tràn ngập trong đời sống sản xuất sinh hoạt của con người:
“Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.”
Hình ảnh chợ cá đông đúc thể hiện sự sầm uất đi lên của cuộc sống con người trong quãng thời bình ổn. Âm thanh “lao xao” của chợ cá nói lên sự tươi vui nhộn nhịp của đời sống nhân dân khi đất nước trong giai đoạn thái bình. Tất cả hướng vào cuộc sống cần cù lao động chân chất của con dân Đại Việt. Hòa với sự rộn rã của lao xao của buổi chợ là tiếng ve kêu “dắng dỏi” nổi lên trong buổi chiều tà, tiếng ve như tiếng đàn đệm thêm vào âm thanh phồn nhịp đã có khiên cuộc sống lại càng thêm náo nức. Thế nhưng tiếng ve cũng báo hiệu cho sự tắt dần của nắng, bóng tối dân lên phủ vây bốn bề, và âm thanh sinh hoạt cũng dần thưa đi nhường chỗ cho buổi hoàng hôn. Bằng điệu hồn luôn náo nức, tâm hồn thiết tha với đời sống cùng tâm hồn lạc quan, yêu đời và sự nhạy của của mình, Ức Trai đã kí họa được bức tranh mà ở đó cảnh thiên lây động mạnh mẽ và cuộc sống sinh hoạt nhộn nhịp của con người đều hiện lên tràn đầy sức sống.
Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Khải nói rằng: “Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó”. Nguyễn Trãi chưa muốn đặt dấu chấm hết cho bài thơ khi đã kí thác được tình yêu tự nhiên và sự tha thiết đối với cuộc sống nơi quê hương ông qua những dòng thơ trên mà còn thả lòng mình vào bài thơ qua hai câu thơ cuối:
“Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắm đòi phương.”
Tấm lòng chân thành và tâm huyết nhất của người lương quân họ Nguyễn vẫn là muốn đất nước thịnh vượng, cuộc sống người dân được yên bề ấm no hạnh phúc. Một con người vốn xem dân làm gốc rễ cho sự phát triển của đất nước, trước cảnh rộn nhịp sức sống của tự nhiên và con người thì lòng ông lại vơi lên khát vọng mãnh liệt. Ông khát khao có cây đàn của vua Thuấn, đàn một tiếng để thỏa được nỗi niềm mong muốn nhân dân khắp nơi đều được giàu có no đủ. Dẫu xa trốn triều đường nhưng sâu trong thâm tâm của người hướng về sự phồn thịnh quốc gia lại chẳng phải sự an nhàn tịnh tâm của Ức Trai.
Bằng tấm lòng nhạy bén, nhạy cảm cùng sự tinh tế trong cách nhìn cuộc sống, nhà thơ đã cảm nhận nét đẹp tiềm tàng sức sống của bức tranh ngày hè bằng cả thị giác, thính giác lẫn khứu giác. Tất cả đều cho thấy ông là người yêu thiên nhiên vạn vật. Rồi tình yêu thiên nhiên ấy lại dẫn dắt cả lòng tác gia lẫn người đọc đến nơi mà lòng yêu nước vẫn luôn nở rộ trú ngụ. Tác giả trong cảnh nhàn mà tâm bất nhàn, mình ở nơi ở ẩn nhưng tâm vẫn hướng đến chốn quan trường, vẫn mong được đàn “Ngu cầm” cho dân chúng mọi nơi được no đủ. Hình tượng nhân vật đi từ tình yêu tha thiết với tự nhiên đến tình yêu nước mãnh liệt mạnh mẽ.
“Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật.” (Bêlinski). Để cánh diều mang những suy nghĩ về tâm tình thế thái bay cao lòng độc giả, Ức Trai đã thực sự tài ba trong việc thổi cánh diều ấy bằng ngọn gió nghệ thuật đặc sắc. Về phương diện ngôn ngữ, ngôn ngữ thơ phong phú đa dạng có sự kết hợp giữa lớp từ Hán Việt, lớp từ thuần Việt cũng như sử dụng các điển tích điển cố đã giúp giọng điệu của bài thơ trở nên sinh động và sâu lắng, qua đó giúp bài thơ trở nên vừa bình dị mà lại vừa trang trọng. Đặc biệt hơn là sự cách tân về thể loại đã làm cho bài thơ trở nên mới mẻ nhưng độc đáo vô cùng, nhà thơ không bị gò bó vào những gì đã có mà tạo nên những bước đột phá in hằng dấu ấn riêng biệt. Khung cảnh ngày hè nhờ đó mà cũng không gay gắt gói chang như những thi phẩm trước đó mà lại được hòa quyện với cái ấm của lòng yêu nước.
Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Trãi được xem là một “tác gia”, và cũng không phải ngẫu nhiên mà ông được UNESCO vinh danh là “Danh nhân văn hóa thế giới”. Bài thơ đã thực sự để lại cho thế hệ con cháu đời sau về bài học yêu nước vô cùng của một người lương quân, một trung thần vì nước vì dân.
Câu 1: Thể thơ của văn bản trên là thơ thất ngôn bát cú Đường luật.
Câu 2: Những hình ảnh nói về nét sinh hoạt hàng ngày đạm bạc, thanh cao của tác giả:
Một mai, một cuốc, một cần câu, thu ăn măng trúc, đông ăn giá, xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao,…
Câu 3:
Biện pháp tu từ: Liệt kê ("một mai, một cuốc, một cần câu").
Tác dụng:
+Làm cho câu thơ thêm sinh động, hữu hiệu, gợi hình gợi cảm và giàu chất trữ tình hơn.
+Nhấn mạnh về cuộc sống lao động và sinh hoạt gần gũi với thiên nhiên của nhà thơ. Qua đó, người đọc cảm nhận được vẻ đẹp thanh nhã, ung dung, tự tại trong cuộc sống của tác giả.
Câu 4: Quan niệm dại - khôn của tác giả trong hai câu thơ
"Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ"
"Người khôn, người đến chốn lao xao"
Quan niệm này thể hiện sự khác biệt trong cách lựa chọn lối sống của tác giả so với người đời. "Dại" ở đây là lựa chọn cuộc sống thanh nhàn, xa lánh danh lợi, "khôn" là theo đuổi danh lợi ở chốn "lao xao". Đó là một cách nói ngược, tư duy đi ngược với số đông nhưng đó lại chính là cái khôn của tác giả, một cái khôn “khác người” nhưng đầy tính triết lý.
Câu 5: Đoạn văn ngắn cảm nhận về vẻ đẹp nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm:
Bài thơ "Nhàn" thể hiện rõ nét vẻ đẹp nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đó là một con người có cốt cách thanh cao, tâm hồn trong sáng, không màng danh lợi. Ông đã từ bỏ đi cuộc sống với đầy rẫy quyền lực, tiền tài, danh lợi mà thay vào đó, ông lựa chọn cho mình một cuộc sống hòa mình với thiên nhiên, vui thú điền viên, xa lánh chốn quan trường sô bồ. Qua đó, ta thấy được một nhân cách lớn, một lối sống đẹp của bậc hiền triết, của bậc cha ông ta khi xưa.