Nguyễn Mai Nhi

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Nguyễn Mai Nhi
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

Câu 1. Văn bản trên thuộc Kiểu văn bản thuyết minh .

Câu 2. Đối tượng thông tin được đề cập đến trong văn bản là Khu di tích Cố Đô Huế

Câu 3. Câu văn nêu rõ mốc thời gian  (ngày 6-12-1993),hành động(UNESCO công nhận), và hệ quả (trở thành di tích quan trọng), thể hiện sự kiện có tính bước ngoặt và khẳng định giá trị của Cố đô Huế về mặt lịch sử và văn hóa đối với Việt Nam và thế giới.

Câu 4. Phương tiện phi ngôn ngữ được sử dụng là hình ảnh minh họa  ("Hoàng thành Huế"). Tác dụng: giúp người đọc hình dung trực quan, tăng tính sinh động và hiểu rõ hơn về nội dung được trình bày trong văn bản.

Câu 5.

Mục đích :Giới thiệu và khẳng định giá trị lịch sử, văn hóa của Cố đô Huế.

Nội dung: Văn bản cung cấp thông tin về vị trí, kiến trúc, vai trò lịch sử, giá trị văn hóa và ý nghĩa quốc tế của khu di tích Cố đô Huế.

Câu 1:

Di tích lịch sử là những minh chứng sống động về quá khứ hào hùng của dân tộc, góp phần giáo dục truyền thống yêu nước và lòng tự hào dân tộc cho thế hệ trẻ. Để bảo vệ và phát huy giá trị của các di tích này, cần thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ. Trước hết, các cấp chính quyền cần có chính sách đầu tư, tu bổ, trùng tu di tích đúng cách, tránh làm sai lệch giá trị lịch sử. Thứ hai, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục trong cộng đồng, đặc biệt là học sinh, sinh viên, để nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc bảo vệ di sản. Bên cạnh đó, khuyến khích người dân tham gia bảo vệ di tích tại địa phương, tránh các hành vi phá hoại hoặc xâm phạm cảnh quan. Ngoài ra, phát triển du lịch gắn liền với bảo tồn cũng là cách để vừa khai thác giá trị kinh tế, vừa giữ gìn di sản lâu dài. Sự kết hợp giữa trách nhiệm của Nhà nước và ý thức của người dân sẽ góp phần gìn giữ những giá trị lịch sử quý báu cho muôn đời sau.

Câu 2:

Bài thơ "Mùi cơm cháy"của nhà thơ Vũ Tuấn là một tác phẩm giàu cảm xúc, mang đậm dấu ấn quê hương và tình cảm gia đình. Qua hình ảnh giản dị của món ăn dân dã – cơm cháy – tác giả không chỉ gợi lại những kỷ niệm tuổi thơ mà còn thể hiện tình yêu tha thiết với quê hương đất nước. Đoạn thơ là một lời nhắn nhủ đầy tình cảm rằng: tình yêu quê hương, lòng biết ơn cha mẹ và tình yêu Tổ quốc có thể bắt nguồn từ những điều nhỏ bé, đời thường nhất.

Ngay từ những câu thơ đầu tiên, tác giả đã mở ra không gian của hoài niệm:“Con đi xa, nhớ hương vị tuổi thơ
Mùi cơm cháy, con vẫn ăn ngày trước”.
Hương vị cơm cháy không chỉ là món ăn, mà còn là biểu tượng của một thời thơ ấu nghèo khó nhưng đầy tình thương. Dù “đôi chân con đi khắp miền Tổ quốc”, dù đã trải nghiệm nhiều vùng đất, nhưng “chẳng nơi nào… có vị cơm năm xưa”. Vị cơm ấy đã gắn bó máu thịt với tuổi thơ, với mái nhà xưa, nơi có mẹ, có cha, có chị, có những yêu thương thầm lặng nuôi con khôn lớn. Nỗi nhớ ấy không chỉ là sự hoài niệm cá nhân, mà còn là tiếng nói chung của bao người con xa quê, mang trong lòng tình cảm thiêng liêng với nơi mình sinh ra.

Ở khổ thơ thứ hai, hình ảnh cơm cháy được mở rộng thành không gian ký ức, nơi gắn liền với thiên nhiên và tình thân:“Cơm cháy quê nghèo... có nắng, có mưa
Có lời mẹ ru, ngọt ngào cay đắng
Có những hi sinh, nhớ thương thầm lặng
Con yêu nước mình... từ những câu ca…”.
Quê hương hiện lên trong những lát cắt chân thực và xúc động: có nắng mưa, có giọng ru của mẹ, có sự hy sinh lặng lẽ. Chính những hình ảnh ấy đã nuôi dưỡng tâm hồn đứa trẻ, gieo vào lòng nó hạt giống yêu nước từ những câu ca dao, từ lời ru đầy tình thương. Đây là thông điệp rất nhân văn của bài thơ: tình yêu đất nước không phải là điều xa vời, mà bắt đầu từ chính tình cảm gia đình, từ những câu hát, lời ru thấm đẫm tâm hồn dân tộc.

Khổ thơ cuối tiếp tục làm nổi bật chất thơ mộc mạc, gắn với hình ảnh lao động và sinh hoạt thường ngày:
“Cơm cháy quê nghèo... mặn mồ hôi cha
Có vị thơm rơm, cánh đồng mùa gặt
Muối mặn gừng cay, có hè nắng gắt
Có ánh trăng vàng... chị múc bên sông...”
Tác giả đã khéo léo hòa quyện hương vị của cơm cháy với mùi thơm của rơm, mồ hôi cha, mùa gặt, nắng hè và ánh trăng vàng. Đó là bức tranh quê hương hiện lên đầy đủ các sắc thái: từ cực nhọc đến ấm áp, từ mặn mòi đến ngọt ngào. Mỗi chi tiết đều gợi cảm giác thân quen, gắn bó. Và qua đó, nhà thơ khẳng định: tình yêu nước được vun đắp từ chính những gì gần gũi, chân thành nhất.

Bằng lời thơ giản dị, cảm xúc chân thành và hình ảnh đậm chất dân gian, Vũ Tuấn đã gửi gắm một thông điệp ý nghĩa: yêu nước không chỉ là những hành động lớn lao, mà còn được bắt đầu từ những điều bình dị – như vị cơm cháy nghèo, như lời mẹ ru, như giọt mồ hôi của cha và ánh trăng quê nhà. Bài thơ không chỉ là nỗi nhớ mà còn là lời nhắc nhở thế hệ hôm nay biết trân trọng những giá trị truyền thống, gìn giữ tình quê, tình người như một phần máu thịt của dân tộc.

Câu 1:

Cuộc sống của mỗi con người là kết quả của hàng loạt những lựa chọn được thực hiện mỗi ngày. Câu nói của Eleanor Roosevelt: “Tôi của ngày hôm nay là những lựa chọn của tôi ngày hôm qua” đã khẳng định vai trò quan trọng của sự lựa chọn trong việc định hình nên bản thân và cuộc sống của chúng ta. Mỗi quyết định, dù lớn hay nhỏ, đều có thể tạo ra những bước ngoặt quan trọng. Việc chọn lựa bạn bè, môi trường sống, cách ứng xử hay định hướng học tập, nghề nghiệp… đều góp phần tạo nên con người và vị trí của chúng ta trong xã hội. Một người kiên trì theo đuổi mục tiêu, lựa chọn sống tích cực, nỗ lực không ngừng sẽ có cơ hội chạm đến thành công. Ngược lại, những lựa chọn sai lầm hoặc thiếu suy nghĩ có thể dẫn đến thất bại, hối hận. Tuy nhiên, điều quan trọng không chỉ là chọn đúng mà còn là biết chịu trách nhiệm và học hỏi từ lựa chọn của mình. Cuộc sống không cho ta quyền kiểm soát mọi điều, nhưng ta luôn có quyền lựa chọn thái độ và hành động của bản thân. Vì thế, hãy trân trọng mỗi quyết định và chọn lựa bằng cả lý trí và trái tim.

Câu 2:

Trong truyện ngắn Lụm Còi của Nguyễn Ngọc Tư, một nét đặc sắc nghệ thuật nổi bật chính là nghệ thuật kể chuyện đầy chân thực và xúc động thông qua ngôi kể thứ nhất .Nhờ việc lựa chọn ngôi kể “tôi” – nhân vật chính – tác giả đã giúp người đọc dễ dàng tiếp cận với thế giới nội tâm, cảm xúc, và suy nghĩ của nhân vật, từ đó tạo ra sự gần gũi, chân thực và đồng cảm sâu sắc.

Nguyễn Ngọc Tư đã rất tài tình khi để nhân vật “tôi” kể lại câu chuyện bằng giọng văn hồn nhiên, đúng với tâm lý của một đứa trẻ đang giận dỗi, nông nổi nhưng cũng rất dễ cảm động và biết hối lỗi. Ban đầu, “tôi” hậm hực bỏ nhà đi vì cảm thấy bị cha mẹ trách phạt, nhưng sau cuộc gặp gỡ với thằng Lụm – một đứa trẻ bất hạnh không cha mẹ, nhân vật “tôi” dần thay đổi cách nhìn. Những chi tiết tưởng chừng giản dị như “thằng Lụm nhìn theo xe tôi đến khuất thì thôi”, hay “trong mắt nó lấp loáng những giọt nước” được kể lại một cách nhẹ nhàng mà đầy sức lay động.

Bên cạnh đó, ngôn ngữ kể chuyện gần gũi sinh động mang đậm chất khẩu ngữ Nam bộ ,cũng góp phần làm tăng tính chân thực và cảm xúc cho truyện. Cách kể chuyện tự nhiên, đậm chất trẻ thơ khiến câu chuyện dù không có những cao trào kịch tính vẫn tạo được sức hút mạnh mẽ và thông điệp sâu sắc về tình cảm gia đình, về sự cảm thông giữa con người với con người.

Chính nhờ nghệ thuật kể chuyện ấy, truyện "Lụm Còi"không chỉ chạm đến trái tim người đọc mà còn để lại dư âm lắng đọng về giá trị của tình thân, về lòng nhân ái và sự trưởng thành từ những trải nghiệm giản dị mà quý giá.


Câu 1.
Ngôi kể được sử dụng trong văn bản là Ngôi thứ nhất

Câu 2

Thời gian :Vào buổi chạng vạng tối, lúc nhân vật “tôi” quyết định bỏ nhà đi và gặp thằng Lụm

Không gian :Tại ngã tư đường nơi ,dẫn về nhà ngoại của nhân vật “tôi” và cũng là nơi thằng Lụm thường ngồi chờ mẹ.

Câu 3.
Thằng Lụm mong được ba mẹ đánh như nhân vật “tôi” vì nó mồ côi không có cha mẹ , nên đối với nó, chỉ cần có cha mẹ bên cạnh ,dù bị mắng hay đánh cũng là hạnh phúc . Sự thiếu thốn tình thân khiến nó thèm khát cả những điều tưởng chừng như tiêu cực.

Câu 4.
Ban đầu, nhân vật “tôi” xưng “tôi” – “mày” với Lụm để chứng tỏ mình lớn hơn, người lớn hơn. Nhưng đến cuối truyện, “tôi” đã đổi cách xưng hô thành “em”—“anh Lụm” .
Việc đổi cách xưng hô cho thấy Sự thay đổi trong nhận thức và cảm xúc của nhân vật “tôi” : từ chỗ kiêu ngạo, nông nổi chuyển sang khiêm nhường, đồng cảm, thấu hiểu và biết trân trọng hoàn cảnh thiệt thòi của người khác.

Câu 5.
Em không đồng tình với quan điểm “Hãy rời xa gia đình và sống cuộc đời như bạn muốn” vì:
Gia đình là nơi yêu thương, chở che và là điểm tựa tinh thần lớn nhất. Cuộc sống tự do không có nghĩa là rũ bỏ trách nhiệm, bỏ đi tình thân. Rời xa gia đình mà không hiểu, không thông cảm, không giải quyết vấn đề chỉ là hành động bốc đồng, dẫn đến hậu quả đáng tiếc. Như trong truyện, “tôi” đã nhận ra giá trị của gia đình khi so sánh mình với hoàn cảnh đáng thương của thằng Lụm, từ đó trân trọng hơn tình cảm gia đình và biết hối lỗi.

Câu 1.
Luận đề của văn bản là: Chi tiết cái bóng trong truyện “Chuyện người con gái Nam Xương” là một chi tiết nghệ thuật đặc sắc, góp phần tạo nên tình huống truyện độc đáo, thể hiện tài kể chuyện và tấm lòng của người vợ, đồng thời truyền tải bài học sâu sắc về hậu quả của sự ghen tuông mù quáng.

Câu 2.
Theo người viết, truyện “Chuyện người con gái Nam Xương” hấp dẫn bởi tình huống truyện độc đáo: Người chồng trở về sau chiến trận, nghe lời đứa con kể về “người cha” từng đêm xuất hiện trong nhà mà không bế con, khiến người chồng vì ghen tuông mù quáng mà không tin vợ, đẩy đến bi kịch vợ nhảy sông tự vẫn.

Câu 3.
Mục đích của việc người viết nhắc đến tình huống truyện ở phần mở đầu là: Làm nổi bật vai trò của chi tiết cái bóng trong việc tạo nên tình huống truyện độc đáo, từ đó dẫn dắt người đọc đến nhận thức sâu sắc về giá trị nghệ thuật và thông điệp nhân văn của truyện.

Câu 4

Chi tiết được trình bày khách quan:
“Ngày xưa chưa có tivi, đến cả ‘rối hình’ cũng không có, tối tối con cái thường quây quần quanh cha mẹ, ông bà, chơi trò soi bóng trên tường…”

Chi tiết được trình bày chủ quan:
“Có lẽ vì muốn con luôn cảm thấy người cha vẫn có mặt ở nhà… nên người vợ đã chỉ vào cái bóng của mình mà nói với con rằng đó là cha của Đản…”

Nhận xét về mối quan hệ:
Việc trình bày khách quan giúp tạo nền tảng thực tế và tăng tính thuyết phục cho phần trình bày chủ quan, từ đó làm nổi bật chiều sâu tâm lý của nhân vật và sự tinh tế trong cách kể chuyện. Hai cách trình bày này bổ trợ nhau trong việc làm sáng rõ luận điểm về giá trị nghệ thuật của chi tiết cái bóng.

Câu 5.
Người viết cho rằng chi tiết cái bóng là một chi tiết nghệ thuật đặc sắc vì: Nó được lấy từ đời sống thường ngày, được sử dụng khéo léo để tạo nên một tình huống truyện đầy kịch tính và bất ngờ. Chi tiết ấy không chỉ phản ánh nỗi nhớ chồng, tình thương con của Vũ Nương mà còn là “cái cớ” nghệ thuật đầy sáng tạo, góp phần làm nổi bật thông điệp lên án sự ghen tuông mù quáng.

Câu 1:

Nhân vật Dung trong đoạn trích thể hiện số phận bất hạnh và bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Sinh ra trong một gia đình sa sút, Dung lớn lên thiếu thốn cả vật chất lẫn tình thương. Không được lựa chọn cuộc đời mình, nàng bị mẹ đẻ bán đi như một món hàng để đổi lấy mấy trăm đồng bạc cưới. Về nhà chồng, cuộc sống của Dung càng thêm bi kịch: phải làm việc cực nhọc, chịu sự khinh miệt của mẹ chồng và em chồng, còn người chồng thì nhu nhược, vô dụng. Trong hoàn cảnh ấy, Dung rơi vào tuyệt vọng, từng tìm đến cái chết như một lối thoát, nhưng rồi lại bị kéo trở lại với cuộc sống đầy đau khổ. Dù trải qua nỗi cay đắng đến tột cùng, nàng vẫn không có tiếng nói, không được thấu hiểu hay yêu thương. Qua nhân vật Dung, nhà văn Thạch Lam không chỉ thể hiện lòng cảm thương sâu sắc đối với số phận người phụ nữ mà còn lên án xã hội bất công, hà khắc, nơi thân phận con người – đặc biệt là phụ nữ – không được coi trọng, không được làm chủ cuộc đời mình.

Câu 2:

Trong xã hội hiện đại, bình đẳng giới đã và đang trở thành một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu. Đây không chỉ là một yêu cầu về quyền con người, mà còn là nền tảng để xây dựng một xã hội công bằng, tiến bộ và phát triển bền vững.

Vậy bình đẳng giới là gì ?Bình đẳng giới là việc nam và nữ có quyền, trách nhiệm và cơ hội như nhau trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình, không bị phân biệt hay hạn chế chỉ vì giới tính.

Hiện nay, bình đẳng giới đã có nhiều chuyển biến tích cực. Phụ nữ ngày càng tham gia nhiều hơn vào các hoạt động xã hội, chính trị, kinh tế và giáo dục. Ở Việt Nam, tỷ lệ nữ tham gia Quốc hội, làm lãnh đạo doanh nghiệp, nhà giáo, bác sĩ, nhà khoa học… ngày càng tăng. Có thể kể đến những tấm gương tiêu biểu như bà Nguyễn Thị Phương Thảo – nữ tỷ phú tự thân đầu tiên của Việt Nam, hay cô giáo Nguyễn Thị Oanh – người đã vượt qua khó khăn để mang tri thức đến vùng cao. Những đóng góp to lớn đó cho thấy nữ giới hoàn toàn có đủ năng lực để tham gia, cống hiến ngang bằng với nam giới.

Tuy nhiên, thực tế vẫn còn nhiều bất cập. Ở nhiều nơi, phụ nữ vẫn bị phân biệt trong việc học hành, làm việc, và bị áp đặt trong vai trò “phải lo toan việc nhà”, trong khi nam giới được ưu tiên lựa chọn những công việc quan trọng. Những định kiến như “phụ nữ thì yếu đuối”, “con trai phải mạnh mẽ, lãnh đạo”… vẫn tồn tại dai dẳng trong tư duy xã hội, tạo ra sự bất công ngấm ngầm. Bên cạnh đó, tình trạng bạo lực gia đình, quấy rối tình dục nơi làm việc, và sự thiếu tiếng nói trong gia đình khiến phụ nữ phải chịu nhiều thiệt thòi.

Để thực hiện bình đẳng giới một cách thực chất, cần có những biện pháp đồng bộ và mạnh mẽ. Trước hết, nhà nước cần hoàn thiện hệ thống pháp luật, có chế tài nghiêm minh để bảo vệ quyền lợi cho phụ nữ, xử lý các hành vi bạo lực, phân biệt đối xử dựa trên giới tính. Thứ hai, giáo dục đóng vai trò cực kỳ quan trọng: cần đưa nội dung bình đẳng giới vào chương trình học, giúp thế hệ trẻ sớm có ý thức tôn trọng giới và xóa bỏ định kiến. Gia đình cũng cần thay đổi tư duy: không áp đặt vai trò giới, khuyến khích cả nam và nữ phát triển toàn diện theo sở thích và năng lực của mình. Đồng thời, truyền thông và báo chí cũng phải tích cực tuyên truyền, lan tỏa những hình ảnh tích cực về người phụ nữ trong xã hội hiện đại.

Tóm lại, bình đẳng giới không chỉ là quyền lợi của phụ nữ mà còn là thước đo sự văn minh của một quốc gia. Khi mọi giới tính đều được tôn trọng, yêu thương và tạo cơ hội phát triển như nhau, xã hội sẽ ngày càng nhân văn, bền vững và giàu mạnh hơn. Chính mỗi người trong chúng ta phải là một “người hành động” cho mục tiêu cao đẹp đó.


Câu 2:

    Xã hội ngày càng phát triển càng khiến con người phải đối mặt với những vấn đề khác nhau ,một trong những vấn đề gây bức xúc nhất hiện nay đó là lối sống thích khoe khoang,phô trương"ảo" những thứ không thuộc về mình của giới trẻ hiện nay.

    Vậy lối sống thích khoe khoang phô trương ảo là gì? Có thể nói đó gọi là khoe khoang những thứ mình không có hay không thuộc về mình nhằm chạy theo trào lưu nhằm thể hiện bản thân với mọi người.Những người như vậy thường được biểu hiện qua việc thích khoe khoang,sống ảo với mọi người để thể hiện bản thân hay muốn mọi người chú ý,ngưỡng mộ

   Vậy nguyên nhân dẫn đến vấn đề trên là do đâu? Là do mạng xã hội ngày càng phát triển,bản thân những bạn trẻ vẫn chưa nhận thức được những hậu quả mà nó gây ra.Điển hình như một bạn học sinh tên H do khoe khoang quá mức những thứ không thuộc về mình ,khiến cho các bạn trong lớp cảm thấy khó chịu nên đã không muốn chơi với H nữa.

    Từ đó cho thấy được hậu quả nghiêm trọng của việc khoe khoang,phô trương "ảo" đối với bản thân khiến cho bạn bè, mọi người ngày càng xa lánh đồng thời cũng khiến cho xã hội kém phát triển do có những thành phần như vậy.

  Ngoài những bạn trẻ thích khoe khoang thì vẫn có một có bạn trẻ sống thật với bản thân mình,có sao thì sống vậy không ảo tưởng những thứ không thuộc về mình.

  Tóm lại,đây là một trong những vấn đề đáng quan tâm của giớ trẻ hiện nay .Vì vậy gia đình cần quan tâm sát sao các con hơn,bản thân chúng ta cũng không nên trên để tránh ảnh hưởng đến bản thân và xã hội.

Câu1 :Ngôi kể: ngôi thứ ba

Câu2 :

Truyện kể về cuộc sống giản dị của hai cha con già sống trong một ngôi nhà tranh giữa rừng mai. Người cha, một ông lão mù, dành cả tâm hồn cho vườn mai.Cậu con trai, cũng mang tên Mai, luôn sát cánh bên cha, cùng ông chăm sóc vườn mai và bán hoa mỗi dịp Tết. Cả hai sống gắn bó với vườn mai, với rừng núi, và với những mùa xuân tràn đầy hy vọng. Truyện ngắn gợi lên một bức tranh đẹp về tình cha con, về vẻ đẹp của thiên nhiên và sự bình yên của cuộc sống.

Câu3:

Ông già Mai là một nhân vật trung tâm, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc bởi:
 * Tình yêu mãnh liệt với thiên nhiên: Ông dành trọn tâm huyết cho vườn mai, cảm nhận từng nhánh cây, từng cánh hoa như những đứa con của mình.
 * Khả năng cảm thụ tinh tế: Dù đôi mắt không còn nhìn thấy, ông vẫn cảm nhận được vẻ đẹp của hoa mai qua xúc giác và khứu giác.
 * Tình cha con sâu nặng: Ông luôn quan tâm, chăm sóc con trai và truyền lại cho con tình yêu với thiên nhiên, với cuộc sống.
Những chi tiết đáng chú ý:
 * Đôi tay: Đôi tay của ông lão luôn miệt mài chăm sóc vườn mai, trở thành biểu tượng cho sự cần mẫn, yêu đời.
 * Mùi hương mai: Mùi hương mai không chỉ là hương hoa mà còn là hương vị cuộc sống, là niềm hạnh phúc của ông lão.
 * Giọng nói: Giọng nói của ông lão chứa đựng sự ấm áp, bình yên, truyền cảm hứng cho người nghe.
Qua trên,từ nhân vật ông lão tác giả đã khẳng định giá trị của cuộc sống giản dị, gần gũi với thiên nhiên.Đồng thời, truyện cũng ca ngợi tình cảm gia đình, tình yêu thương giữa cha con.

Câu4:

Em thích chi tiết ông lão cho người con trai của mình cưa nửa rừng mai.Vì chi tiết đó đã thể hiện được tình cảm mà người cha đối với con của mình ,mặc dù ông ko muốn làm như vậy.

Câu5:

Yếu tố tình cảm gia đình được thể hiện gián tiếp qua kỉ niệm và sự gắn bó của ông lão với cây mai, ông coi nó như một thành viên thân thiết trong gia đình.Nó mang ý nghĩa to lớn ,gọi lên những giá trị truyền thống của quê hương.Từ đó khiến ông lão càng trân trọng và yêu thương.