N.Bảo

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của N.Bảo
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

Trình đơn chính
WikipediaBách khoa toàn thư mở Tìm kiếm Công cụ cá nhân
Photograph your local culture, help Wikipedia and win! Thu nhỏ
Tính năng Tạo tài khoản · Hướng dẫn người mới · Quy định · Viết bài mới · Chỗ thử · Câu thường hỏi · Sách hướng dẫn · Dịch bài · Thêm chú thích · Thảo luận · Liên hệ quản lý
Tiêu chuẩn bài viết Đủ độ nổi bậtvăn phong trung lập và có nguồn đáng tin cậy · Không spam quảng cáo · Không vi phạm bản quyền · Cẩm nang biên soạn

Đóng (mở lại bằng cách xóa cookie dismissASN1 trong trình duyệt)

Nội dung

 ẩn

Mahabharata

138 ngôn ngữ Công cụ

Giao diện ẩn Văn bản
  • Nhỏ Tiêu chuẩn Lớn
Chiều rộng
  • Tiêu chuẩn Rộng
Màu (beta)
  • Tự động Sáng Tối
Đây là một bài viết cơ bản. Nhấn vào đây để biết thêm thông tin.

Mahabharata

Mahabharata

Một trang diễn tả trận chiến Câu Lư trong Mahabharata

Information

Tôn giáo

Ấn Độ giáo

Tác giả

Vyasa

Ngôn ngữ

Tiếng Phạn

Giai đoạn

Chủ yếu biên soạn từ thế kỷ 3 TCN - 4 CN

Chương

18 Parvas

Verses

200,000

Mahabharata (chữ Devanagari: महाभारत - Mahābhārata), từ Hán-Việt là Ma-ha-bà-la-đa là một trong hai tác phẩm sử thi bằng tiếng Phạn vĩ đại nhất của Ấn Độ cổ đại, tác phẩm còn lại là Ramayana. Nội dung của tác phẩm nói về cuộc chiến giữa hai nhóm anh em họ trong cuộc chiến tranh Câu Lư (22 tháng 11, 3067 TCN—10 tháng 12, 3067 TCN? (kết thúc 18 ngày)) và số phận của các hoàng tử Kaurava và Pāṇḍava cùng những hậu nhân của họ.

Tác phẩm này cũng chứa những tài liệu về triết học và sự tôn sùng, chẳng hạn như cuộc thảo luận về bốn "mục đích của cuộc sống", hay còn gọi là puruṣārtha (12.161). Trong số các tác phẩm và những câu chuyện chính trong Mahābhārata là Bhagavad Gita, câu chuyện về nàng Damayanti, câu chuyện về Savitri và Satyavan, một phiên bản rút gọn của Rāmāyaṇa.[1]

Theo truyền thống, tác giả của Mahābhārata thường được cho là Vyāsa. Đã có nhiều nỗ lực để làm sáng tỏ sự lịch sử phát triển và các lớp cấu thành của nó. Phần lớn nội dung của Mahābhārata có lẽ được biên soạn giữa thế kỷ thứ 3 TCN và thế kỷ thứ 3 CN, với những phân đoạn cổ nhất vẫn còn được bảo tồn không sớm hơn năm 400 TCN.[2][3] Các sự kiện diễn ra trong sử thi có lẽ rơi vào giữa thế kỷ 9 và 8 TCN. Cuốn sử thi này có lẽ đã đạt đến hình thức cuối cùng của nó vào đầu thời kỳ Gupta (khoảng thế kỷ thứ 4).[3][4][5]

Mahābhārata là bài thiên trường ca nhất được biết đến và đã được mô tả là "bài thơ dài nhất từng được viết".[6][7] Phiên bản dài nhất của nó bao gồm hơn 100.000 loka hoặc hơn 200.000 câu thơ riêng lẻ (mỗi shloka là 2 câu) và các đoạn văn xuôi dài. Với tổng số khoảng 1.8 triệu chữ, Mahābhārata có độ dài gấp hơn 8 lần Iliad và Odyssey cộng lại, hoặc khoảng bốn lần chiều dài của Rāmāyaṇa.[8][9] Học giả W. J. Johnson đã so sánh tầm quan trọng của Mahābhārata trong bối cảnh văn minh thế giới với Kinh thánh, các tác phẩm của William Shakespeare, các tác phẩm của Homeros, kịch Hy Lạp hay Kinh Qur'an.[10] Trong truyền thống Ấn Độ, đôi khi Mahābhārata được gọi là kinh Vệ-đà thứ năm.

Tham khảo lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Các tài liệu tham khảo sớm nhất được biết đến nói về Mahabharata và lõi của nó Bharata có ghi ngày tháng là thời điểm Aṣṭādhyāyī (sutra 6.2.38) của Panini (fl. 4 TCN) và trong Aśvalāyana Gṛhyasūtra (3.4.4). Điều này có thể có nghĩa là 24.000 câu thơ cốt lõi, được gọi là Bhārata, cũng như phiên bản ban đầu của Mahābhārata mở rộng, được sáng tác vào thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên. Một báo cáo của nhà văn Hy Lạp Dio Chrysostom (khoảng 40 - 120 CN) về việc thơ của Homer được hát ngay cả ở Ấn Độ [11] dường như ngụ ý rằng Iliad đã được dịch sang tiếng Phạn. Tuy nhiên, các học giả Ấn Độ nói chung đã coi đây là bằng chứng cho sự tồn tại của một Mahābhārata vào thời điểm này, mà các tập của Dio hoặc các nguồn của ông xác định với câu chuyện của Iliad.[12]

Một số câu chuyện trong Mahābhārata mang bản sắc riêng biệt của chúng trong văn học Phạn ngữ Cổ điển. Ví dụ, Abhijñānaśākuntala của nhà thơ tiếng Phạn nổi tiếng Kālidāsa (khoảng năm 400 CN), được cho là sống trong thời đại của vương triều Gupta, dựa trên một câu chuyện tiền thân của MahābhārataUrubhaṅga, một vở kịch tiếng Phạn được viết bởi Bhāsa, người được cho là đã sống trước Kālidāsa, dựa trên việc giết chết Duryodhana bằng cách Bhīma xẻ đùi anh ta.[13]

Bản khắc trên đĩa đồng của Maharaja Sharvanatha (533–534 CN) từ Khoh (Quận SatnaMadhya Pradesh) mô tả Mahābhārata là một "bộ sưu tập 100.000 câu thơ" (śata-sahasri saṃhitā).[13]

Sơ lược

[sửa | sửa mã nguồn]

Mahabharata là một trong hai cuốn Sử thi tiếng Phạn (Sanskrit) Ấn Độ cổ, cuốn thứ hai là RamayanaMahabharata bao gồm 220.000 câu thơ đôi (sloka), là thiên sử thi dài nhất trên thế giới, gấp 8 lần tổng số câu thơ của hai bộ sử thi Hy Lạp cổ đại là Iliad và Odyssey. Tác phẩm này được coi là "Đại Bách khoa toàn thư" về văn hóa truyền thống, về các truyền thuyết và về các thể chế chính trị - xã hội của Ấn Độ cổ xưa. Nó là tấm gương phản chiếu toàn bộ đời sống con người Ấn Độ truyền thống như lời một câu ngạn ngữ cổ: "Cái gì không thấy được ở trong Mahabharata thì cũng không thể nào thấy được ở Ấn Độ."

Cuốn sử thi này cũng chiếm vị trí quan trọng trong triết học và tôn giáo tại Ấn Độ, do nó có lồng ghép cuộc đối thoại triết lý dài tới 700 câu thơ giữa dũng sĩ Arjuna và thần Krishna trước khi khai chiến. Phần thơ triết học kỳ diệu này được xem như một tác phẩm độc lập hoàn chỉnh mang tên Bhagavad Gita (Chí tôn ca), một kinh văn quan trọng hàng đầu của Ấn Độ giáo (đạo Hindu).

Nguồn gốc

[sửa | sửa mã nguồn]
Bản đồ Ấn Độ thời kỳ Mahabharata

Cái tên Mahabharata có thể được dịch thành: Bharath Vĩ Đại, mang nghĩa là Ấn Độ Vĩ Đại hay còn được hiểu là "Câu chuyện vĩ đại về triều vua Bharath".

Theo dân gian, cuốn Mahabharata được coi là tác phẩm của Vyasa. Với độ dài đáng kinh ngạc, những nghiên cứu ngữ văn về cuốn sử thi có một lịch sử dài làm sáng tỏ những đầu mối về sự phát triển và những lớp ngữ nghĩa. Tuy còn nhiều tranh cãi, cuốn sử thi được ước đoán ra đời chừng thế kỷ 8 - 9. Theo BKTTVN thì Mahabharata ra đời khoảng thế kỷ 5 TCN và được sửa chữa dần, hoàn thiện khoảng thế kỷ 5 CN.

Nội dung

[sửa | sửa mã nguồn]

Nội dung cơ bản của bộ sử thi Mahabharata nói về cuộc chiến tranh khốc liệt giữa hai dòng họ Kaurava và Pandava, cả hai đều là dòng dõi vua Bharata vào khoảng thế kỷ 11 TCN đến thế kỷ 10 TCN. Do đó tên Mahabharata có nghĩa là "các truyện vĩ đại của triều đại nhà Bharata".

Bên cạnh nội dung chính, chỉ chiếm chừng 1/5 độ dài tác phẩm, bộ sử thi này còn có rất nhiều sự tích thần linh, những truyện ngụ ngôn về muông thú, những cuộc phiêu lưu và những câu chuyện tình thú vị, hấp dẫn ly kỳ (như chuyện nàng Savitri cãi lại Diêm vương để được lấy anh chàng đốn củi...). Nhưng trong tác phẩm Mahabharata, các giáo sĩ Ấn Độ giáo đã đưa vào những giáo lý triết học tự biện siêu hình về pháp (dharma), nghiệp (karma), về sự giải thoát (moksha), những ẩn dụ triết họcchâm ngôn xử thế...

18 phần

[sửa | sửa mã nguồn]

Sử thi gồm 18 phần, gọi là 18 parva:

  1. Adi
  2. Sabha
  3. Vana
  4. Vitara
  5. Udyoga
  6. Brishma
  7. Drona
  8. Karna
  9. Shalya
  10. Sauptika
  11. Stri
  12. Shanti
  13. Anushasana
  14. Ashvamedhika
  15. Ashramavasika
  16. Mausala
  17. Mahaprasthanika
  18. Svargarohana

Gia phả

[sửa | sửa mã nguồn]







Kurua


























































































































































































Anasawan

a


























































































































































































Parikshit(1)

a


























































































































































































Janamejaya(1)

a


























































































































































































Bheemasena(1)

a


























































































































































































Pratisravas

a


























































































































































































Pratipaa






















































































































































































Gangā


Shāntanua


Satyavati
















Pārāshara
























































































































































































Bhishma




Chitrāngada




Ambikā


Vichitravirya


Ambālikā




Vyāsa




























































































































































































Dhritarāshtrab


Gāndhāri


Shakuni


Surya 

Deva

a


Kunti


Pāndub


Mādri










































































































































































Karnac


Yudhishthirad


Bhimad


Arjunad


Subhadrā


Nakulad


Sahadevad




















































































































Duryodhanae


Dussalā


Dushāsana


(98 sons)





























































































































































































































Abhimanyuf


Uttarā


































































































































Parikshit









































































































































Janamejaya













































Ký hiệu

  • Nam: viền xanh
  • Nữ: viền đỏ
  • Chi Pandavahộp màu lục
  • Chi Kauravahộp màu vàng


Ảnh hưởng văn học

[sửa | sửa mã nguồn]

Bộ sử thi Mahabharata đã trở thành nguồn cảm hứng cho các thi nhân, nghệ sĩ sáng tác những tác phẩm vănthơnhạchọa và những công trình kiến trúcđiêu khắc trong nền văn học - nghệ thuật Ấn Độ và những nước chịu ảnh hưởng của nền văn học - nghệ thuật này.

Tục ngữ Ấn Độ có câu:

"Cái gì không tìm thấy ở trong Mahabharata thì cũng không thể tìm thấy được ở Ấn Độ"

Mahabharata và truyền thuyết An Dương Vương

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhà nghiên cứu, tu sĩ Phật giáo Lê Mạnh Thát cho rằng truyền thuyết An Dương Vương đánh bại vua Hùng thứ 18 và lập nên nhà nước Âu Lạc chỉ là một phiên bản của chuyện Mahabharata.[14]

Xem thêm

[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Datta, Amaresh (ngày 1 tháng 1 năm 2006). The Encyclopaedia of Indian Literature (Volume Two) (Devraj to Jyoti)ISBN 978-81-260-1194-0.
  2. ^ Austin, Christopher R. (2019). Pradyumna: Lover, Magician, and Son of the Avatara (bằng tiếng Anh). Oxford University Press. tr. 21. ISBN 978-0-19-005411-3.
  3. a b Brockington (1998, p. 26)
  4. ^ Pattanaik, Devdutt. "How did the 'Ramayana' and 'Mahabharata' come to be (and what has 'dharma' got to do with it)?"Scroll.in.
  5. ^ Van Buitenen; The Mahabharata – 1; The Book of the Beginning. Introduction (Authorship and Date)
  6. ^ James G. Lochtefeld (2002). The Illustrated Encyclopedia of Hinduism: A-M. The Rosen Publishing Group. tr. 399. ISBN 978-0-8239-3179-8.
  7. ^ T. R. S. Sharma; June Gaur; Sahitya Akademi (New Delhi, Inde). (2000). Ancient Indian Literature: An Anthology. Sahitya Akademi. tr. 137. ISBN 978-81-260-0794-3.
  8. ^ Spodek, Howard. Richard Mason. The World's History. Pearson Education: 2006, New Jersey. 224, 0-13-177318-6
  9. ^ Amartya Sen, The Argumentative Indian. Writings on Indian Culture, History and Identity, London: Penguin Books, 2005.
  10. ^ W. J. Johnson (1998). The Sauptikaparvan of the Mahabharata: The Massacre at NightOxford University Press. tr. ix. ISBN 978-0-19-282361-8.
  11. ^ Dio Chrysostom, 53.6-7, trans. H. Lamar Crosby, Loeb Classical Library, 1946, vol. 4, p. 363.
  12. ^ Christian Lassen, in his Indische Alterthumskunde, supposed that the reference is ultimately to Dhritarashtra's sorrows, the laments of Gandhari and Draupadi, and the valor of Arjuna and Suyodhana or Karna (cited approvingly in Max DunckerThe History of Antiquity (trans. Evelyn Abbott, London 1880), vol. 4, p. 81). This interpretation is endorsed in such standard references as Albrecht Weber's History of Indian Literature but has sometimes been repeated as fact instead of as interpretation.
  13. a b Ghadyalpatil, Abhiram (ngày 10 tháng 10 năm 2016). "Maharashtra builds up case for providing quotas to Marathas"Livemint (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2020.
  14. ^ "Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn động"Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 11 năm 2008. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Badrinath, Chaturvedi. The Mahābhārata: An Inquiry in the Human Condition, New Delhi, Orient Longman (2006)
  • Bandyopadhyaya, Jayantanuja (2008). Class and Religion in Ancient India. Anthem Press.
  • Basham, A. L. (1954). The Wonder That Was India: A Survey of the Culture of the Indian Sub-Continent Before The Coming of the Muslims. New York: Grove Press.
  • Bhasin, R.V. "Mahabharata" published by National Publications, India, 2007.
  • J. Brockington. The Sanskrit Epics, Leiden (1998).
  • Buitenen, Johannes Adrianus Bernardus (1978). The Mahābhārata. 3 volumes (translation / publication incomplete due to his death). University of Chicago Press.
  • Chaitanya, Krishna (K.K. Nair). The Mahabharata, A Literary Study, Clarion Books, New Delhi 1985.
  • Gupta, S.P. and Ramachandran, K.S. (ed.). Mahabharata: myth and reality. Agam Prakashan, New Delhi 1976.
  • Hiltebeitel, AlfThe Ritual of Battle, Krishna in the Mahabharata, SUNY Press, New York 1990.
  • Hopkins, E. W. The Great Epic of India, New York (1901).
  • Jyotirmayananda, Swami. Mysticism of the MahabharataYoga Research Foundation, Miami 1993.
  • Katz, Ruth Cecily Arjuna in the Mahabharata, University of South Carolina Press, Columbia 1989.
  • Keay, John (2000). India: A History. Grove Press. ISBN 978-0-8021-3797-5.
  • Majumdar, R. C. (general editor) (1951). The History and Culture of the Indian People: (Volume 1) The Vedic Age. London: George Allen & Unwin Ltd. {{Chú thích sách}}: |first= có tên chung (trợ giúp)
  • Lerner, Paule. Astrological Key in Mahabharata, David White (trans.) Motilal Banarsidass, New Delhi 1988.
  • Mallory, J. P (2005). In Search of the Indo-EuropeansThames & HudsonISBN 0-500-27616-1
  • Mehta, M. The problem of the double introduction to the MahabharataJAOS 93 (1973), 547–550.
  • Minkowski, C.Z. Janamehayas Sattra and Ritual Structure, JAOS 109 (1989), 410–420.
  • Minkowski, C.Z. 'Snakes, Sattras and the Mahabharata', in: Essays on the Mahabharata, ed. A. Sharma, Leiden (1991), 384–400.
  • Oldenberg, HermannZur Geschichte der Altindischen Prosa, Berlin (1917)
  • Oberlies, Th. 'The Counsels of the Seer Narada: Ritual on and under the Surface of the Mahabharata', in: New methods in the research of epic (ed. H. L. C. Tristram), Freiburg (1998).
  • Oldenberg, H. Das Mahabharata, Göttingen (1922).
  • PāṇiniAshtādhyāyīBook 4. Translated by Chandra Vasu. Benares, 1896. (bằng tiếng Phạn and tiếng Anh)
  • Pargiter, F.E. Ancient Indian Historical Tradition, London 1922. Repr. Motilal Banarsidass 1997.
  • Sattar, Arshia (transl.) (1996). The Rāmāyaṇa by Vālmīki. Viking. tr. 696. ISBN 978-0-14-029866-6.
  • Sukthankar, Vishnu S. and Shrimant Balasaheb Pant Pratinidhi (1933). The Mahabharata: for the first time critically editedBhandarkar Oriental Research Institute.
  • Sullivan, Bruce M. Seer of the Fifth Veda, Krsna Dvaipayana Vyasa in the Mahabharata, Motilal Banarsidass, New Delhi 1999.
  • Sutton, Nicholas. Religious Doctrines in the Mahabharata, Motilal Banarsidass, New Delhi 2000.
  • Utgikar, N. B. The mention of the Mahābhārata in the Ashvalayana Grhya Sutra, Proceedings and Transactions of the All-India Oriental Conference, Poona (1919), vol. 2, Poona (1922), 46–61.
  • Vaidya, R.V. A Study of Mahabharat; A Research, Poona, A.V.G. Prakashan, 1967
  • Witzel, MichaelEpics, Khilas and Puranas: Continuities and Ruptures, Proceedings of the Third Dubrovnik International Conference on the Sanskrit Epics and Puranas, ed. P. Koskiallio, Zagreb (2005), 21–80.

Đọc thêm

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Rajagopachari (2004) Sử thi Ấn Độ vĩ đại Mahabharata cùng với Chí Tôn Ca. Cao Huy Đỉnh, Phạm Thủy Ba, Nguyễn Quế Dương dịch. NXB Văn học.
  • DK (2021) Mahabharata bằng hình - Thiên sử thi vĩ đại nhất của Ấn Độ. Lê Thị Oanh dịch; Hồ Anh Thái hiệu đính. NXB Dân Trí.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn] Wikiquote có sưu tập danh ngôn về: Mahabharata

Tiếng Anh:

Tiếng Ấn Độ:

ẩn Các vị thần trong Ấn Độ giáo và kinh Ấn Độ giáo

Nam thần (

Deva

)

Hindu omkaar

Nữ thần (

Devi

)

Các vị thần khác

Kinh văn

Tiêu đề chuẩn Sửa dữ liệu tại Wikidata
Thể loại
Trình đơn chính
WikipediaBách khoa toàn thư mở Tìm kiếm Công cụ cá nhân
Photograph your local culture, help Wikipedia and win! Thu nhỏ
Tính năng Tạo tài khoản · Hướng dẫn người mới · Quy định · Viết bài mới · Chỗ thử · Câu thường hỏi · Sách hướng dẫn · Dịch bài · Thêm chú thích · Thảo luận · Liên hệ quản lý
Tiêu chuẩn bài viết Đủ độ nổi bậtvăn phong trung lập và có nguồn đáng tin cậy · Không spam quảng cáo · Không vi phạm bản quyền · Cẩm nang biên soạn

Đóng (mở lại bằng cách xóa cookie dismissASN1 trong trình duyệt)

Nội dung

 ẩn

Mahabharata

138 ngôn ngữ Công cụ

Giao diện ẩn Văn bản
  • Nhỏ Tiêu chuẩn Lớn
Chiều rộng
  • Tiêu chuẩn Rộng
Màu (beta)
  • Tự động Sáng Tối
Đây là một bài viết cơ bản. Nhấn vào đây để biết thêm thông tin.

Mahabharata

Mahabharata

Một trang diễn tả trận chiến Câu Lư trong Mahabharata

Information

Tôn giáo

Ấn Độ giáo

Tác giả

Vyasa

Ngôn ngữ

Tiếng Phạn

Giai đoạn

Chủ yếu biên soạn từ thế kỷ 3 TCN - 4 CN

Chương

18 Parvas

Verses

200,000

Mahabharata (chữ Devanagari: महाभारत - Mahābhārata), từ Hán-Việt là Ma-ha-bà-la-đa là một trong hai tác phẩm sử thi bằng tiếng Phạn vĩ đại nhất của Ấn Độ cổ đại, tác phẩm còn lại là Ramayana. Nội dung của tác phẩm nói về cuộc chiến giữa hai nhóm anh em họ trong cuộc chiến tranh Câu Lư (22 tháng 11, 3067 TCN—10 tháng 12, 3067 TCN? (kết thúc 18 ngày)) và số phận của các hoàng tử Kaurava và Pāṇḍava cùng những hậu nhân của họ.

Tác phẩm này cũng chứa những tài liệu về triết học và sự tôn sùng, chẳng hạn như cuộc thảo luận về bốn "mục đích của cuộc sống", hay còn gọi là puruṣārtha (12.161). Trong số các tác phẩm và những câu chuyện chính trong Mahābhārata là Bhagavad Gita, câu chuyện về nàng Damayanti, câu chuyện về Savitri và Satyavan, một phiên bản rút gọn của Rāmāyaṇa.[1]

Theo truyền thống, tác giả của Mahābhārata thường được cho là Vyāsa. Đã có nhiều nỗ lực để làm sáng tỏ sự lịch sử phát triển và các lớp cấu thành của nó. Phần lớn nội dung của Mahābhārata có lẽ được biên soạn giữa thế kỷ thứ 3 TCN và thế kỷ thứ 3 CN, với những phân đoạn cổ nhất vẫn còn được bảo tồn không sớm hơn năm 400 TCN.[2][3] Các sự kiện diễn ra trong sử thi có lẽ rơi vào giữa thế kỷ 9 và 8 TCN. Cuốn sử thi này có lẽ đã đạt đến hình thức cuối cùng của nó vào đầu thời kỳ Gupta (khoảng thế kỷ thứ 4).[3][4][5]

Mahābhārata là bài thiên trường ca nhất được biết đến và đã được mô tả là "bài thơ dài nhất từng được viết".[6][7] Phiên bản dài nhất của nó bao gồm hơn 100.000 loka hoặc hơn 200.000 câu thơ riêng lẻ (mỗi shloka là 2 câu) và các đoạn văn xuôi dài. Với tổng số khoảng 1.8 triệu chữ, Mahābhārata có độ dài gấp hơn 8 lần Iliad và Odyssey cộng lại, hoặc khoảng bốn lần chiều dài của Rāmāyaṇa.[8][9] Học giả W. J. Johnson đã so sánh tầm quan trọng của Mahābhārata trong bối cảnh văn minh thế giới với Kinh thánh, các tác phẩm của William Shakespeare, các tác phẩm của Homeros, kịch Hy Lạp hay Kinh Qur'an.[10] Trong truyền thống Ấn Độ, đôi khi Mahābhārata được gọi là kinh Vệ-đà thứ năm.

Tham khảo lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Các tài liệu tham khảo sớm nhất được biết đến nói về Mahabharata và lõi của nó Bharata có ghi ngày tháng là thời điểm Aṣṭādhyāyī (sutra 6.2.38) của Panini (fl. 4 TCN) và trong Aśvalāyana Gṛhyasūtra (3.4.4). Điều này có thể có nghĩa là 24.000 câu thơ cốt lõi, được gọi là Bhārata, cũng như phiên bản ban đầu của Mahābhārata mở rộng, được sáng tác vào thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên. Một báo cáo của nhà văn Hy Lạp Dio Chrysostom (khoảng 40 - 120 CN) về việc thơ của Homer được hát ngay cả ở Ấn Độ [11] dường như ngụ ý rằng Iliad đã được dịch sang tiếng Phạn. Tuy nhiên, các học giả Ấn Độ nói chung đã coi đây là bằng chứng cho sự tồn tại của một Mahābhārata vào thời điểm này, mà các tập của Dio hoặc các nguồn của ông xác định với câu chuyện của Iliad.[12]

Một số câu chuyện trong Mahābhārata mang bản sắc riêng biệt của chúng trong văn học Phạn ngữ Cổ điển. Ví dụ, Abhijñānaśākuntala của nhà thơ tiếng Phạn nổi tiếng Kālidāsa (khoảng năm 400 CN), được cho là sống trong thời đại của vương triều Gupta, dựa trên một câu chuyện tiền thân của MahābhārataUrubhaṅga, một vở kịch tiếng Phạn được viết bởi Bhāsa, người được cho là đã sống trước Kālidāsa, dựa trên việc giết chết Duryodhana bằng cách Bhīma xẻ đùi anh ta.[13]

Bản khắc trên đĩa đồng của Maharaja Sharvanatha (533–534 CN) từ Khoh (Quận SatnaMadhya Pradesh) mô tả Mahābhārata là một "bộ sưu tập 100.000 câu thơ" (śata-sahasri saṃhitā).[13]

Sơ lược

[sửa | sửa mã nguồn]

Mahabharata là một trong hai cuốn Sử thi tiếng Phạn (Sanskrit) Ấn Độ cổ, cuốn thứ hai là RamayanaMahabharata bao gồm 220.000 câu thơ đôi (sloka), là thiên sử thi dài nhất trên thế giới, gấp 8 lần tổng số câu thơ của hai bộ sử thi Hy Lạp cổ đại là Iliad và Odyssey. Tác phẩm này được coi là "Đại Bách khoa toàn thư" về văn hóa truyền thống, về các truyền thuyết và về các thể chế chính trị - xã hội của Ấn Độ cổ xưa. Nó là tấm gương phản chiếu toàn bộ đời sống con người Ấn Độ truyền thống như lời một câu ngạn ngữ cổ: "Cái gì không thấy được ở trong Mahabharata thì cũng không thể nào thấy được ở Ấn Độ."

Cuốn sử thi này cũng chiếm vị trí quan trọng trong triết học và tôn giáo tại Ấn Độ, do nó có lồng ghép cuộc đối thoại triết lý dài tới 700 câu thơ giữa dũng sĩ Arjuna và thần Krishna trước khi khai chiến. Phần thơ triết học kỳ diệu này được xem như một tác phẩm độc lập hoàn chỉnh mang tên Bhagavad Gita (Chí tôn ca), một kinh văn quan trọng hàng đầu của Ấn Độ giáo (đạo Hindu).

Nguồn gốc

[sửa | sửa mã nguồn]
Bản đồ Ấn Độ thời kỳ Mahabharata

Cái tên Mahabharata có thể được dịch thành: Bharath Vĩ Đại, mang nghĩa là Ấn Độ Vĩ Đại hay còn được hiểu là "Câu chuyện vĩ đại về triều vua Bharath".

Theo dân gian, cuốn Mahabharata được coi là tác phẩm của Vyasa. Với độ dài đáng kinh ngạc, những nghiên cứu ngữ văn về cuốn sử thi có một lịch sử dài làm sáng tỏ những đầu mối về sự phát triển và những lớp ngữ nghĩa. Tuy còn nhiều tranh cãi, cuốn sử thi được ước đoán ra đời chừng thế kỷ 8 - 9. Theo BKTTVN thì Mahabharata ra đời khoảng thế kỷ 5 TCN và được sửa chữa dần, hoàn thiện khoảng thế kỷ 5 CN.

Nội dung

[sửa | sửa mã nguồn]

Nội dung cơ bản của bộ sử thi Mahabharata nói về cuộc chiến tranh khốc liệt giữa hai dòng họ Kaurava và Pandava, cả hai đều là dòng dõi vua Bharata vào khoảng thế kỷ 11 TCN đến thế kỷ 10 TCN. Do đó tên Mahabharata có nghĩa là "các truyện vĩ đại của triều đại nhà Bharata".

Bên cạnh nội dung chính, chỉ chiếm chừng 1/5 độ dài tác phẩm, bộ sử thi này còn có rất nhiều sự tích thần linh, những truyện ngụ ngôn về muông thú, những cuộc phiêu lưu và những câu chuyện tình thú vị, hấp dẫn ly kỳ (như chuyện nàng Savitri cãi lại Diêm vương để được lấy anh chàng đốn củi...). Nhưng trong tác phẩm Mahabharata, các giáo sĩ Ấn Độ giáo đã đưa vào những giáo lý triết học tự biện siêu hình về pháp (dharma), nghiệp (karma), về sự giải thoát (moksha), những ẩn dụ triết họcchâm ngôn xử thế...

18 phần

[sửa | sửa mã nguồn]

Sử thi gồm 18 phần, gọi là 18 parva:

  1. Adi
  2. Sabha
  3. Vana
  4. Vitara
  5. Udyoga
  6. Brishma
  7. Drona
  8. Karna
  9. Shalya
  10. Sauptika
  11. Stri
  12. Shanti
  13. Anushasana
  14. Ashvamedhika
  15. Ashramavasika
  16. Mausala
  17. Mahaprasthanika
  18. Svargarohana

Gia phả

[sửa | sửa mã nguồn]







Kurua


























































































































































































Anasawan

a


























































































































































































Parikshit(1)

a


























































































































































































Janamejaya(1)

a


























































































































































































Bheemasena(1)

a


























































































































































































Pratisravas

a


























































































































































































Pratipaa






















































































































































































Gangā


Shāntanua


Satyavati
















Pārāshara
























































































































































































Bhishma




Chitrāngada




Ambikā


Vichitravirya


Ambālikā




Vyāsa




























































































































































































Dhritarāshtrab


Gāndhāri


Shakuni


Surya 

Deva

a


Kunti


Pāndub


Mādri










































































































































































Karnac


Yudhishthirad


Bhimad


Arjunad


Subhadrā


Nakulad


Sahadevad




















































































































Duryodhanae


Dussalā


Dushāsana


(98 sons)





























































































































































































































Abhimanyuf


Uttarā


































































































































Parikshit









































































































































Janamejaya













































Ký hiệu

  • Nam: viền xanh
  • Nữ: viền đỏ
  • Chi Pandavahộp màu lục
  • Chi Kauravahộp màu vàng


Ảnh hưởng văn học

[sửa | sửa mã nguồn]

Bộ sử thi Mahabharata đã trở thành nguồn cảm hứng cho các thi nhân, nghệ sĩ sáng tác những tác phẩm vănthơnhạchọa và những công trình kiến trúcđiêu khắc trong nền văn học - nghệ thuật Ấn Độ và những nước chịu ảnh hưởng của nền văn học - nghệ thuật này.

Tục ngữ Ấn Độ có câu:

"Cái gì không tìm thấy ở trong Mahabharata thì cũng không thể tìm thấy được ở Ấn Độ"

Mahabharata và truyền thuyết An Dương Vương

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhà nghiên cứu, tu sĩ Phật giáo Lê Mạnh Thát cho rằng truyền thuyết An Dương Vương đánh bại vua Hùng thứ 18 và lập nên nhà nước Âu Lạc chỉ là một phiên bản của chuyện Mahabharata.[14]

Xem thêm

[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Datta, Amaresh (ngày 1 tháng 1 năm 2006). The Encyclopaedia of Indian Literature (Volume Two) (Devraj to Jyoti)ISBN 978-81-260-1194-0.
  2. ^ Austin, Christopher R. (2019). Pradyumna: Lover, Magician, and Son of the Avatara (bằng tiếng Anh). Oxford University Press. tr. 21. ISBN 978-0-19-005411-3.
  3. a b Brockington (1998, p. 26)
  4. ^ Pattanaik, Devdutt. "How did the 'Ramayana' and 'Mahabharata' come to be (and what has 'dharma' got to do with it)?"Scroll.in.
  5. ^ Van Buitenen; The Mahabharata – 1; The Book of the Beginning. Introduction (Authorship and Date)
  6. ^ James G. Lochtefeld (2002). The Illustrated Encyclopedia of Hinduism: A-M. The Rosen Publishing Group. tr. 399. ISBN 978-0-8239-3179-8.
  7. ^ T. R. S. Sharma; June Gaur; Sahitya Akademi (New Delhi, Inde). (2000). Ancient Indian Literature: An Anthology. Sahitya Akademi. tr. 137. ISBN 978-81-260-0794-3.
  8. ^ Spodek, Howard. Richard Mason. The World's History. Pearson Education: 2006, New Jersey. 224, 0-13-177318-6
  9. ^ Amartya Sen, The Argumentative Indian. Writings on Indian Culture, History and Identity, London: Penguin Books, 2005.
  10. ^ W. J. Johnson (1998). The Sauptikaparvan of the Mahabharata: The Massacre at NightOxford University Press. tr. ix. ISBN 978-0-19-282361-8.
  11. ^ Dio Chrysostom, 53.6-7, trans. H. Lamar Crosby, Loeb Classical Library, 1946, vol. 4, p. 363.
  12. ^ Christian Lassen, in his Indische Alterthumskunde, supposed that the reference is ultimately to Dhritarashtra's sorrows, the laments of Gandhari and Draupadi, and the valor of Arjuna and Suyodhana or Karna (cited approvingly in Max DunckerThe History of Antiquity (trans. Evelyn Abbott, London 1880), vol. 4, p. 81). This interpretation is endorsed in such standard references as Albrecht Weber's History of Indian Literature but has sometimes been repeated as fact instead of as interpretation.
  13. a b Ghadyalpatil, Abhiram (ngày 10 tháng 10 năm 2016). "Maharashtra builds up case for providing quotas to Marathas"Livemint (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2020.
  14. ^ "Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn động"Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 11 năm 2008. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Badrinath, Chaturvedi. The Mahābhārata: An Inquiry in the Human Condition, New Delhi, Orient Longman (2006)
  • Bandyopadhyaya, Jayantanuja (2008). Class and Religion in Ancient India. Anthem Press.
  • Basham, A. L. (1954). The Wonder That Was India: A Survey of the Culture of the Indian Sub-Continent Before The Coming of the Muslims. New York: Grove Press.
  • Bhasin, R.V. "Mahabharata" published by National Publications, India, 2007.
  • J. Brockington. The Sanskrit Epics, Leiden (1998).
  • Buitenen, Johannes Adrianus Bernardus (1978). The Mahābhārata. 3 volumes (translation / publication incomplete due to his death). University of Chicago Press.
  • Chaitanya, Krishna (K.K. Nair). The Mahabharata, A Literary Study, Clarion Books, New Delhi 1985.
  • Gupta, S.P. and Ramachandran, K.S. (ed.). Mahabharata: myth and reality. Agam Prakashan, New Delhi 1976.
  • Hiltebeitel, AlfThe Ritual of Battle, Krishna in the Mahabharata, SUNY Press, New York 1990.
  • Hopkins, E. W. The Great Epic of India, New York (1901).
  • Jyotirmayananda, Swami. Mysticism of the MahabharataYoga Research Foundation, Miami 1993.
  • Katz, Ruth Cecily Arjuna in the Mahabharata, University of South Carolina Press, Columbia 1989.
  • Keay, John (2000). India: A History. Grove Press. ISBN 978-0-8021-3797-5.
  • Majumdar, R. C. (general editor) (1951). The History and Culture of the Indian People: (Volume 1) The Vedic Age. London: George Allen & Unwin Ltd. {{Chú thích sách}}: |first= có tên chung (trợ giúp)
  • Lerner, Paule. Astrological Key in Mahabharata, David White (trans.) Motilal Banarsidass, New Delhi 1988.
  • Mallory, J. P (2005). In Search of the Indo-EuropeansThames & HudsonISBN 0-500-27616-1
  • Mehta, M. The problem of the double introduction to the MahabharataJAOS 93 (1973), 547–550.
  • Minkowski, C.Z. Janamehayas Sattra and Ritual Structure, JAOS 109 (1989), 410–420.
  • Minkowski, C.Z. 'Snakes, Sattras and the Mahabharata', in: Essays on the Mahabharata, ed. A. Sharma, Leiden (1991), 384–400.
  • Oldenberg, HermannZur Geschichte der Altindischen Prosa, Berlin (1917)
  • Oberlies, Th. 'The Counsels of the Seer Narada: Ritual on and under the Surface of the Mahabharata', in: New methods in the research of epic (ed. H. L. C. Tristram), Freiburg (1998).
  • Oldenberg, H. Das Mahabharata, Göttingen (1922).
  • PāṇiniAshtādhyāyīBook 4. Translated by Chandra Vasu. Benares, 1896. (bằng tiếng Phạn and tiếng Anh)
  • Pargiter, F.E. Ancient Indian Historical Tradition, London 1922. Repr. Motilal Banarsidass 1997.
  • Sattar, Arshia (transl.) (1996). The Rāmāyaṇa by Vālmīki. Viking. tr. 696. ISBN 978-0-14-029866-6.
  • Sukthankar, Vishnu S. and Shrimant Balasaheb Pant Pratinidhi (1933). The Mahabharata: for the first time critically editedBhandarkar Oriental Research Institute.
  • Sullivan, Bruce M. Seer of the Fifth Veda, Krsna Dvaipayana Vyasa in the Mahabharata, Motilal Banarsidass, New Delhi 1999.
  • Sutton, Nicholas. Religious Doctrines in the Mahabharata, Motilal Banarsidass, New Delhi 2000.
  • Utgikar, N. B. The mention of the Mahābhārata in the Ashvalayana Grhya Sutra, Proceedings and Transactions of the All-India Oriental Conference, Poona (1919), vol. 2, Poona (1922), 46–61.
  • Vaidya, R.V. A Study of Mahabharat; A Research, Poona, A.V.G. Prakashan, 1967
  • Witzel, MichaelEpics, Khilas and Puranas: Continuities and Ruptures, Proceedings of the Third Dubrovnik International Conference on the Sanskrit Epics and Puranas, ed. P. Koskiallio, Zagreb (2005), 21–80.

Đọc thêm

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Rajagopachari (2004) Sử thi Ấn Độ vĩ đại Mahabharata cùng với Chí Tôn Ca. Cao Huy Đỉnh, Phạm Thủy Ba, Nguyễn Quế Dương dịch. NXB Văn học.
  • DK (2021) Mahabharata bằng hình - Thiên sử thi vĩ đại nhất của Ấn Độ. Lê Thị Oanh dịch; Hồ Anh Thái hiệu đính. NXB Dân Trí.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn] Wikiquote có sưu tập danh ngôn về: Mahabharata

Tiếng Anh:

Tiếng Ấn Độ:

ẩn Các vị thần trong Ấn Độ giáo và kinh Ấn Độ giáo

Nam thần (

Deva

)

Hindu omkaar

Nữ thần (

Devi

)

Các vị thần khác

Kinh văn

Tiêu đề chuẩn Sửa dữ liệu tại Wikidata
Thể loại Tìm kiếm Mahabharata 138 ngôn ngữThêm đề tài

ikipedia


Trình đơn chính
WikipediaBách khoa toàn thư mở Tìm kiếm Công cụ cá nhân
Photograph your local culture, help Wikipedia and win! Thu nhỏ
Tính năng Tạo tài khoản · Hướng dẫn người mới · Quy định · Viết bài mới · Chỗ thử · Câu thường hỏi · Sách hướng dẫn · Dịch bài · Thêm chú thích · Thảo luận · Liên hệ quản lý
Tiêu chuẩn bài viết Đủ độ nổi bậtvăn phong trung lập và có nguồn đáng tin cậy · Không spam quảng cáo · Không vi phạm bản quyền · Cẩm nang biên soạn

Đóng (mở lại bằng cách xóa cookie dismissASN1 trong trình duyệt)

Nội dung

 ẩn

Mahabharata

138 ngôn ngữ Công cụ

Giao diện ẩn Văn bản
  • Nhỏ Tiêu chuẩn Lớn
Chiều rộng
  • Tiêu chuẩn Rộng
Màu (beta)
  • Tự động Sáng Tối
Đây là một bài viết cơ bản. Nhấn vào đây để biết thêm thông tin.

Mahabharata

Mahabharata

Một trang diễn tả trận chiến Câu Lư trong Mahabharata

Information

Tôn giáo

Ấn Độ giáo

Tác giả

Vyasa

Ngôn ngữ

Tiếng Phạn

Giai đoạn

Chủ yếu biên soạn từ thế kỷ 3 TCN - 4 CN

Chương

18 Parvas

Verses

200,000

Mahabharata (chữ Devanagari: महाभारत - Mahābhārata), từ Hán-Việt là Ma-ha-bà-la-đa là một trong hai tác phẩm sử thi bằng tiếng Phạn vĩ đại nhất của Ấn Độ cổ đại, tác phẩm còn lại là Ramayana. Nội dung của tác phẩm nói về cuộc chiến giữa hai nhóm anh em họ trong cuộc chiến tranh Câu Lư (22 tháng 11, 3067 TCN—10 tháng 12, 3067 TCN? (kết thúc 18 ngày)) và số phận của các hoàng tử Kaurava và Pāṇḍava cùng những hậu nhân của họ.

Tác phẩm này cũng chứa những tài liệu về triết học và sự tôn sùng, chẳng hạn như cuộc thảo luận về bốn "mục đích của cuộc sống", hay còn gọi là puruṣārtha (12.161). Trong số các tác phẩm và những câu chuyện chính trong Mahābhārata là Bhagavad Gita, câu chuyện về nàng Damayanti, câu chuyện về Savitri và Satyavan, một phiên bản rút gọn của Rāmāyaṇa.[1]

Theo truyền thống, tác giả của Mahābhārata thường được cho là Vyāsa. Đã có nhiều nỗ lực để làm sáng tỏ sự lịch sử phát triển và các lớp cấu thành của nó. Phần lớn nội dung của Mahābhārata có lẽ được biên soạn giữa thế kỷ thứ 3 TCN và thế kỷ thứ 3 CN, với những phân đoạn cổ nhất vẫn còn được bảo tồn không sớm hơn năm 400 TCN.[2][3] Các sự kiện diễn ra trong sử thi có lẽ rơi vào giữa thế kỷ 9 và 8 TCN. Cuốn sử thi này có lẽ đã đạt đến hình thức cuối cùng của nó vào đầu thời kỳ Gupta (khoảng thế kỷ thứ 4).[3][4][5]

Mahābhārata là bài thiên trường ca nhất được biết đến và đã được mô tả là "bài thơ dài nhất từng được viết".[6][7] Phiên bản dài nhất của nó bao gồm hơn 100.000 loka hoặc hơn 200.000 câu thơ riêng lẻ (mỗi shloka là 2 câu) và các đoạn văn xuôi dài. Với tổng số khoảng 1.8 triệu chữ, Mahābhārata có độ dài gấp hơn 8 lần Iliad và Odyssey cộng lại, hoặc khoảng bốn lần chiều dài của Rāmāyaṇa.[8][9] Học giả W. J. Johnson đã so sánh tầm quan trọng của Mahābhārata trong bối cảnh văn minh thế giới với Kinh thánh, các tác phẩm của William Shakespeare, các tác phẩm của Homeros, kịch Hy Lạp hay Kinh Qur'an.[10] Trong truyền thống Ấn Độ, đôi khi Mahābhārata được gọi là kinh Vệ-đà thứ năm.

Tham khảo lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Các tài liệu tham khảo sớm nhất được biết đến nói về Mahabharata và lõi của nó Bharata có ghi ngày tháng là thời điểm Aṣṭādhyāyī (sutra 6.2.38) của Panini (fl. 4 TCN) và trong Aśvalāyana Gṛhyasūtra (3.4.4). Điều này có thể có nghĩa là 24.000 câu thơ cốt lõi, được gọi là Bhārata, cũng như phiên bản ban đầu của Mahābhārata mở rộng, được sáng tác vào thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên. Một báo cáo của nhà văn Hy Lạp Dio Chrysostom (khoảng 40 - 120 CN) về việc thơ của Homer được hát ngay cả ở Ấn Độ [11] dường như ngụ ý rằng Iliad đã được dịch sang tiếng Phạn. Tuy nhiên, các học giả Ấn Độ nói chung đã coi đây là bằng chứng cho sự tồn tại của một Mahābhārata vào thời điểm này, mà các tập của Dio hoặc các nguồn của ông xác định với câu chuyện của Iliad.[12]

Một số câu chuyện trong Mahābhārata mang bản sắc riêng biệt của chúng trong văn học Phạn ngữ Cổ điển. Ví dụ, Abhijñānaśākuntala của nhà thơ tiếng Phạn nổi tiếng Kālidāsa (khoảng năm 400 CN), được cho là sống trong thời đại của vương triều Gupta, dựa trên một câu chuyện tiền thân của MahābhārataUrubhaṅga, một vở kịch tiếng Phạn được viết bởi Bhāsa, người được cho là đã sống trước Kālidāsa, dựa trên việc giết chết Duryodhana bằng cách Bhīma xẻ đùi anh ta.[13]

Bản khắc trên đĩa đồng của Maharaja Sharvanatha (533–534 CN) từ Khoh (Quận SatnaMadhya Pradesh) mô tả Mahābhārata là một "bộ sưu tập 100.000 câu thơ" (śata-sahasri saṃhitā).[13]

Sơ lược

[sửa | sửa mã nguồn]

Mahabharata là một trong hai cuốn Sử thi tiếng Phạn (Sanskrit) Ấn Độ cổ, cuốn thứ hai là RamayanaMahabharata bao gồm 220.000 câu thơ đôi (sloka), là thiên sử thi dài nhất trên thế giới, gấp 8 lần tổng số câu thơ của hai bộ sử thi Hy Lạp cổ đại là Iliad và Odyssey. Tác phẩm này được coi là "Đại Bách khoa toàn thư" về văn hóa truyền thống, về các truyền thuyết và về các thể chế chính trị - xã hội của Ấn Độ cổ xưa. Nó là tấm gương phản chiếu toàn bộ đời sống con người Ấn Độ truyền thống như lời một câu ngạn ngữ cổ: "Cái gì không thấy được ở trong Mahabharata thì cũng không thể nào thấy được ở Ấn Độ."

Cuốn sử thi này cũng chiếm vị trí quan trọng trong triết học và tôn giáo tại Ấn Độ, do nó có lồng ghép cuộc đối thoại triết lý dài tới 700 câu thơ giữa dũng sĩ Arjuna và thần Krishna trước khi khai chiến. Phần thơ triết học kỳ diệu này được xem như một tác phẩm độc lập hoàn chỉnh mang tên Bhagavad Gita (Chí tôn ca), một kinh văn quan trọng hàng đầu của Ấn Độ giáo (đạo Hindu).

Nguồn gốc

[sửa | sửa mã nguồn]
Bản đồ Ấn Độ thời kỳ Mahabharata

Cái tên Mahabharata có thể được dịch thành: Bharath Vĩ Đại, mang nghĩa là Ấn Độ Vĩ Đại hay còn được hiểu là "Câu chuyện vĩ đại về triều vua Bharath".

Theo dân gian, cuốn Mahabharata được coi là tác phẩm của Vyasa. Với độ dài đáng kinh ngạc, những nghiên cứu ngữ văn về cuốn sử thi có một lịch sử dài làm sáng tỏ những đầu mối về sự phát triển và những lớp ngữ nghĩa. Tuy còn nhiều tranh cãi, cuốn sử thi được ước đoán ra đời chừng thế kỷ 8 - 9. Theo BKTTVN thì Mahabharata ra đời khoảng thế kỷ 5 TCN và được sửa chữa dần, hoàn thiện khoảng thế kỷ 5 CN.

Nội dung

[sửa | sửa mã nguồn]

Nội dung cơ bản của bộ sử thi Mahabharata nói về cuộc chiến tranh khốc liệt giữa hai dòng họ Kaurava và Pandava, cả hai đều là dòng dõi vua Bharata vào khoảng thế kỷ 11 TCN đến thế kỷ 10 TCN. Do đó tên Mahabharata có nghĩa là "các truyện vĩ đại của triều đại nhà Bharata".

Bên cạnh nội dung chính, chỉ chiếm chừng 1/5 độ dài tác phẩm, bộ sử thi này còn có rất nhiều sự tích thần linh, những truyện ngụ ngôn về muông thú, những cuộc phiêu lưu và những câu chuyện tình thú vị, hấp dẫn ly kỳ (như chuyện nàng Savitri cãi lại Diêm vương để được lấy anh chàng đốn củi...). Nhưng trong tác phẩm Mahabharata, các giáo sĩ Ấn Độ giáo đã đưa vào những giáo lý triết học tự biện siêu hình về pháp (dharma), nghiệp (karma), về sự giải thoát (moksha), những ẩn dụ triết họcchâm ngôn xử thế...

18 phần

[sửa | sửa mã nguồn]

Sử thi gồm 18 phần, gọi là 18 parva:

  1. Adi
  2. Sabha
  3. Vana
  4. Vitara
  5. Udyoga
  6. Brishma
  7. Drona
  8. Karna
  9. Shalya
  10. Sauptika
  11. Stri
  12. Shanti
  13. Anushasana
  14. Ashvamedhika
  15. Ashramavasika
  16. Mausala
  17. Mahaprasthanika
  18. Svargarohana

Gia phả

[sửa | sửa mã nguồn]







Kurua


























































































































































































Anasawan

a


























































































































































































Parikshit(1)

a


























































































































































































Janamejaya(1)

a


























































































































































































Bheemasena(1)

a


























































































































































































Pratisravas

a


























































































































































































Pratipaa






















































































































































































Gangā


Shāntanua


Satyavati
















Pārāshara
























































































































































































Bhishma




Chitrāngada




Ambikā


Vichitravirya


Ambālikā




Vyāsa




























































































































































































Dhritarāshtrab


Gāndhāri


Shakuni


Surya 

Deva

a


Kunti


Pāndub


Mādri










































































































































































Karnac


Yudhishthirad


Bhimad


Arjunad


Subhadrā


Nakulad


Sahadevad




















































































































Duryodhanae


Dussalā


Dushāsana


(98 sons)





























































































































































































































Abhimanyuf


Uttarā


































































































































Parikshit









































































































































Janamejaya













































Ký hiệu

  • Nam: viền xanh
  • Nữ: viền đỏ
  • Chi Pandavahộp màu lục
  • Chi Kauravahộp màu vàng


Ảnh hưởng văn học

[sửa | sửa mã nguồn]

Bộ sử thi Mahabharata đã trở thành nguồn cảm hứng cho các thi nhân, nghệ sĩ sáng tác những tác phẩm vănthơnhạchọa và những công trình kiến trúcđiêu khắc trong nền văn học - nghệ thuật Ấn Độ và những nước chịu ảnh hưởng của nền văn học - nghệ thuật này.

Tục ngữ Ấn Độ có câu:

"Cái gì không tìm thấy ở trong Mahabharata thì cũng không thể tìm thấy được ở Ấn Độ"

Mahabharata và truyền thuyết An Dương Vương

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhà nghiên cứu, tu sĩ Phật giáo Lê Mạnh Thát cho rằng truyền thuyết An Dương Vương đánh bại vua Hùng thứ 18 và lập nên nhà nước Âu Lạc chỉ là một phiên bản của chuyện Mahabharata.[14]

Xem thêm

[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Datta, Amaresh (ngày 1 tháng 1 năm 2006). The Encyclopaedia of Indian Literature (Volume Two) (Devraj to Jyoti)ISBN 978-81-260-1194-0.
  2. ^ Austin, Christopher R. (2019). Pradyumna: Lover, Magician, and Son of the Avatara (bằng tiếng Anh). Oxford University Press. tr. 21. ISBN 978-0-19-005411-3.
  3. a b Brockington (1998, p. 26)
  4. ^ Pattanaik, Devdutt. "How did the 'Ramayana' and 'Mahabharata' come to be (and what has 'dharma' got to do with it)?"Scroll.in.
  5. ^ Van Buitenen; The Mahabharata – 1; The Book of the Beginning. Introduction (Authorship and Date)
  6. ^ James G. Lochtefeld (2002). The Illustrated Encyclopedia of Hinduism: A-M. The Rosen Publishing Group. tr. 399. ISBN 978-0-8239-3179-8.
  7. ^ T. R. S. Sharma; June Gaur; Sahitya Akademi (New Delhi, Inde). (2000). Ancient Indian Literature: An Anthology. Sahitya Akademi. tr. 137. ISBN 978-81-260-0794-3.
  8. ^ Spodek, Howard. Richard Mason. The World's History. Pearson Education: 2006, New Jersey. 224, 0-13-177318-6
  9. ^ Amartya Sen, The Argumentative Indian. Writings on Indian Culture, History and Identity, London: Penguin Books, 2005.
  10. ^ W. J. Johnson (1998). The Sauptikaparvan of the Mahabharata: The Massacre at NightOxford University Press. tr. ix. ISBN 978-0-19-282361-8.
  11. ^ Dio Chrysostom, 53.6-7, trans. H. Lamar Crosby, Loeb Classical Library, 1946, vol. 4, p. 363.
  12. ^ Christian Lassen, in his Indische Alterthumskunde, supposed that the reference is ultimately to Dhritarashtra's sorrows, the laments of Gandhari and Draupadi, and the valor of Arjuna and Suyodhana or Karna (cited approvingly in Max DunckerThe History of Antiquity (trans. Evelyn Abbott, London 1880), vol. 4, p. 81). This interpretation is endorsed in such standard references as Albrecht Weber's History of Indian Literature but has sometimes been repeated as fact instead of as interpretation.
  13. a b Ghadyalpatil, Abhiram (ngày 10 tháng 10 năm 2016). "Maharashtra builds up case for providing quotas to Marathas"Livemint (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2020.
  14. ^ "Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn động"Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 11 năm 2008. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Badrinath, Chaturvedi. The Mahābhārata: An Inquiry in the Human Condition, New Delhi, Orient Longman (2006)
  • Bandyopadhyaya, Jayantanuja (2008). Class and Religion in Ancient India. Anthem Press.
  • Basham, A. L. (1954). The Wonder That Was India: A Survey of the Culture of the Indian Sub-Continent Before The Coming of the Muslims. New York: Grove Press.
  • Bhasin, R.V. "Mahabharata" published by National Publications, India, 2007.
  • J. Brockington. The Sanskrit Epics, Leiden (1998).
  • Buitenen, Johannes Adrianus Bernardus (1978). The Mahābhārata. 3 volumes (translation / publication incomplete due to his death). University of Chicago Press.
  • Chaitanya, Krishna (K.K. Nair). The Mahabharata, A Literary Study, Clarion Books, New Delhi 1985.
  • Gupta, S.P. and Ramachandran, K.S. (ed.). Mahabharata: myth and reality. Agam Prakashan, New Delhi 1976.
  • Hiltebeitel, AlfThe Ritual of Battle, Krishna in the Mahabharata, SUNY Press, New York 1990.
  • Hopkins, E. W. The Great Epic of India, New York (1901).
  • Jyotirmayananda, Swami. Mysticism of the MahabharataYoga Research Foundation, Miami 1993.
  • Katz, Ruth Cecily Arjuna in the Mahabharata, University of South Carolina Press, Columbia 1989.
  • Keay, John (2000). India: A History. Grove Press. ISBN 978-0-8021-3797-5.
  • Majumdar, R. C. (general editor) (1951). The History and Culture of the Indian People: (Volume 1) The Vedic Age. London: George Allen & Unwin Ltd. {{Chú thích sách}}: |first= có tên chung (trợ giúp)
  • Lerner, Paule. Astrological Key in Mahabharata, David White (trans.) Motilal Banarsidass, New Delhi 1988.
  • Mallory, J. P (2005). In Search of the Indo-EuropeansThames & HudsonISBN 0-500-27616-1
  • Mehta, M. The problem of the double introduction to the MahabharataJAOS 93 (1973), 547–550.
  • Minkowski, C.Z. Janamehayas Sattra and Ritual Structure, JAOS 109 (1989), 410–420.
  • Minkowski, C.Z. 'Snakes, Sattras and the Mahabharata', in: Essays on the Mahabharata, ed. A. Sharma, Leiden (1991), 384–400.
  • Oldenberg, HermannZur Geschichte der Altindischen Prosa, Berlin (1917)
  • Oberlies, Th. 'The Counsels of the Seer Narada: Ritual on and under the Surface of the Mahabharata', in: New methods in the research of epic (ed. H. L. C. Tristram), Freiburg (1998).
  • Oldenberg, H. Das Mahabharata, Göttingen (1922).
  • PāṇiniAshtādhyāyīBook 4. Translated by Chandra Vasu. Benares, 1896. (bằng tiếng Phạn and tiếng Anh)
  • Pargiter, F.E. Ancient Indian Historical Tradition, London 1922. Repr. Motilal Banarsidass 1997.
  • Sattar, Arshia (transl.) (1996). The Rāmāyaṇa by Vālmīki. Viking. tr. 696. ISBN 978-0-14-029866-6.
  • Sukthankar, Vishnu S. and Shrimant Balasaheb Pant Pratinidhi (1933). The Mahabharata: for the first time critically editedBhandarkar Oriental Research Institute.
  • Sullivan, Bruce M. Seer of the Fifth Veda, Krsna Dvaipayana Vyasa in the Mahabharata, Motilal Banarsidass, New Delhi 1999.
  • Sutton, Nicholas. Religious Doctrines in the Mahabharata, Motilal Banarsidass, New Delhi 2000.
  • Utgikar, N. B. The mention of the Mahābhārata in the Ashvalayana Grhya Sutra, Proceedings and Transactions of the All-India Oriental Conference, Poona (1919), vol. 2, Poona (1922), 46–61.
  • Vaidya, R.V. A Study of Mahabharat; A Research, Poona, A.V.G. Prakashan, 1967
  • Witzel, MichaelEpics, Khilas and Puranas: Continuities and Ruptures, Proceedings of the Third Dubrovnik International Conference on the Sanskrit Epics and Puranas, ed. P. Koskiallio, Zagreb (2005), 21–80.

Đọc thêm

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Rajagopachari (2004) Sử thi Ấn Độ vĩ đại Mahabharata cùng với Chí Tôn Ca. Cao Huy Đỉnh, Phạm Thủy Ba, Nguyễn Quế Dương dịch. NXB Văn học.
  • DK (2021) Mahabharata bằng hình - Thiên sử thi vĩ đại nhất của Ấn Độ. Lê Thị Oanh dịch; Hồ Anh Thái hiệu đính. NXB Dân Trí.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn] Wikiquote có sưu tập danh ngôn về: Mahabharata

Tiếng Anh:

Tiếng Ấn Độ:

ẩn Các vị thần trong Ấn Độ giáo và kinh Ấn Độ giáo

Nam thần (

Deva

)

Hindu omkaar

Nữ thần (

Devi

)

Các vị thần khác

Kinh văn

Tiêu đề chuẩn Sửa dữ liệu tại Wikidata
Thể loại Tìm kiếm Mahabharata 138 ngôn ngữThêm đề tài


Tìm kiếm Mahabharata 138 ngôn ngữThêm đề tài
Trình đơn chính
WikipediaBách khoa toàn thư mở Tìm kiếm Công cụ cá nhân
Photograph your local culture, help Wikipedia and win! Thu nhỏ
Tính năng Tạo tài khoản · Hướng dẫn người mới · Quy định · Viết bài mới · Chỗ thử · Câu thường hỏi · Sách hướng dẫn · Dịch bài · Thêm chú thích · Thảo luận · Liên hệ quản lý
Tiêu chuẩn bài viết Đủ độ nổi bậtvăn phong trung lập và có nguồn đáng tin cậy · Không spam quảng cáo · Không vi phạm bản quyền · Cẩm nang biên soạn

Đóng (mở lại bằng cách xóa cookie dismissASN1 trong trình duyệt)

Nội dung

 ẩn

Mahabharata

138 ngôn ngữ Công cụ

Giao diện ẩn Văn bản
  • Nhỏ Tiêu chuẩn Lớn
Chiều rộng
  • Tiêu chuẩn Rộng
Màu (beta)
  • Tự động Sáng Tối
Đây là một bài viết cơ bản. Nhấn vào đây để biết thêm thông tin.

Mahabharata

Mahabharata

Một trang diễn tả trận chiến Câu Lư trong Mahabharata

Information

Tôn giáo

Ấn Độ giáo

Tác giả

Vyasa

Ngôn ngữ

Tiếng Phạn

Giai đoạn

Chủ yếu biên soạn từ thế kỷ 3 TCN - 4 CN

Chương

18 Parvas

Verses

200,000

Mahabharata (chữ Devanagari: महाभारत - Mahābhārata), từ Hán-Việt là Ma-ha-bà-la-đa là một trong hai tác phẩm sử thi bằng tiếng Phạn vĩ đại nhất của Ấn Độ cổ đại, tác phẩm còn lại là Ramayana. Nội dung của tác phẩm nói về cuộc chiến giữa hai nhóm anh em họ trong cuộc chiến tranh Câu Lư (22 tháng 11, 3067 TCN—10 tháng 12, 3067 TCN? (kết thúc 18 ngày)) và số phận của các hoàng tử Kaurava và Pāṇḍava cùng những hậu nhân của họ.

Tác phẩm này cũng chứa những tài liệu về triết học và sự tôn sùng, chẳng hạn như cuộc thảo luận về bốn "mục đích của cuộc sống", hay còn gọi là puruṣārtha (12.161). Trong số các tác phẩm và những câu chuyện chính trong Mahābhārata là Bhagavad Gita, câu chuyện về nàng Damayanti, câu chuyện về Savitri và Satyavan, một phiên bản rút gọn của Rāmāyaṇa.[1]

Theo truyền thống, tác giả của Mahābhārata thường được cho là Vyāsa. Đã có nhiều nỗ lực để làm sáng tỏ sự lịch sử phát triển và các lớp cấu thành của nó. Phần lớn nội dung của Mahābhārata có lẽ được biên soạn giữa thế kỷ thứ 3 TCN và thế kỷ thứ 3 CN, với những phân đoạn cổ nhất vẫn còn được bảo tồn không sớm hơn năm 400 TCN.[2][3] Các sự kiện diễn ra trong sử thi có lẽ rơi vào giữa thế kỷ 9 và 8 TCN. Cuốn sử thi này có lẽ đã đạt đến hình thức cuối cùng của nó vào đầu thời kỳ Gupta (khoảng thế kỷ thứ 4).[3][4][5]

Mahābhārata là bài thiên trường ca nhất được biết đến và đã được mô tả là "bài thơ dài nhất từng được viết".[6][7] Phiên bản dài nhất của nó bao gồm hơn 100.000 loka hoặc hơn 200.000 câu thơ riêng lẻ (mỗi shloka là 2 câu) và các đoạn văn xuôi dài. Với tổng số khoảng 1.8 triệu chữ, Mahābhārata có độ dài gấp hơn 8 lần Iliad và Odyssey cộng lại, hoặc khoảng bốn lần chiều dài của Rāmāyaṇa.[8][9] Học giả W. J. Johnson đã so sánh tầm quan trọng của Mahābhārata trong bối cảnh văn minh thế giới với Kinh thánh, các tác phẩm của William Shakespeare, các tác phẩm của Homeros, kịch Hy Lạp hay Kinh Qur'an.[10] Trong truyền thống Ấn Độ, đôi khi Mahābhārata được gọi là kinh Vệ-đà thứ năm.

Tham khảo lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Các tài liệu tham khảo sớm nhất được biết đến nói về Mahabharata và lõi của nó Bharata có ghi ngày tháng là thời điểm Aṣṭādhyāyī (sutra 6.2.38) của Panini (fl. 4 TCN) và trong Aśvalāyana Gṛhyasūtra (3.4.4). Điều này có thể có nghĩa là 24.000 câu thơ cốt lõi, được gọi là Bhārata, cũng như phiên bản ban đầu của Mahābhārata mở rộng, được sáng tác vào thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên. Một báo cáo của nhà văn Hy Lạp Dio Chrysostom (khoảng 40 - 120 CN) về việc thơ của Homer được hát ngay cả ở Ấn Độ [11] dường như ngụ ý rằng Iliad đã được dịch sang tiếng Phạn. Tuy nhiên, các học giả Ấn Độ nói chung đã coi đây là bằng chứng cho sự tồn tại của một Mahābhārata vào thời điểm này, mà các tập của Dio hoặc các nguồn của ông xác định với câu chuyện của Iliad.[12]

Một số câu chuyện trong Mahābhārata mang bản sắc riêng biệt của chúng trong văn học Phạn ngữ Cổ điển. Ví dụ, Abhijñānaśākuntala của nhà thơ tiếng Phạn nổi tiếng Kālidāsa (khoảng năm 400 CN), được cho là sống trong thời đại của vương triều Gupta, dựa trên một câu chuyện tiền thân của MahābhārataUrubhaṅga, một vở kịch tiếng Phạn được viết bởi Bhāsa, người được cho là đã sống trước Kālidāsa, dựa trên việc giết chết Duryodhana bằng cách Bhīma xẻ đùi anh ta.[13]

Bản khắc trên đĩa đồng của Maharaja Sharvanatha (533–534 CN) từ Khoh (Quận SatnaMadhya Pradesh) mô tả Mahābhārata là một "bộ sưu tập 100.000 câu thơ" (śata-sahasri saṃhitā).[13]

Sơ lược

[sửa | sửa mã nguồn]

Mahabharata là một trong hai cuốn Sử thi tiếng Phạn (Sanskrit) Ấn Độ cổ, cuốn thứ hai là RamayanaMahabharata bao gồm 220.000 câu thơ đôi (sloka), là thiên sử thi dài nhất trên thế giới, gấp 8 lần tổng số câu thơ của hai bộ sử thi Hy Lạp cổ đại là Iliad và Odyssey. Tác phẩm này được coi là "Đại Bách khoa toàn thư" về văn hóa truyền thống, về các truyền thuyết và về các thể chế chính trị - xã hội của Ấn Độ cổ xưa. Nó là tấm gương phản chiếu toàn bộ đời sống con người Ấn Độ truyền thống như lời một câu ngạn ngữ cổ: "Cái gì không thấy được ở trong Mahabharata thì cũng không thể nào thấy được ở Ấn Độ."

Cuốn sử thi này cũng chiếm vị trí quan trọng trong triết học và tôn giáo tại Ấn Độ, do nó có lồng ghép cuộc đối thoại triết lý dài tới 700 câu thơ giữa dũng sĩ Arjuna và thần Krishna trước khi khai chiến. Phần thơ triết học kỳ diệu này được xem như một tác phẩm độc lập hoàn chỉnh mang tên Bhagavad Gita (Chí tôn ca), một kinh văn quan trọng hàng đầu của Ấn Độ giáo (đạo Hindu).

Nguồn gốc

[sửa | sửa mã nguồn]
Bản đồ Ấn Độ thời kỳ Mahabharata

Cái tên Mahabharata có thể được dịch thành: Bharath Vĩ Đại, mang nghĩa là Ấn Độ Vĩ Đại hay còn được hiểu là "Câu chuyện vĩ đại về triều vua Bharath".

Theo dân gian, cuốn Mahabharata được coi là tác phẩm của Vyasa. Với độ dài đáng kinh ngạc, những nghiên cứu ngữ văn về cuốn sử thi có một lịch sử dài làm sáng tỏ những đầu mối về sự phát triển và những lớp ngữ nghĩa. Tuy còn nhiều tranh cãi, cuốn sử thi được ước đoán ra đời chừng thế kỷ 8 - 9. Theo BKTTVN thì Mahabharata ra đời khoảng thế kỷ 5 TCN và được sửa chữa dần, hoàn thiện khoảng thế kỷ 5 CN.

Nội dung

[sửa | sửa mã nguồn]

Nội dung cơ bản của bộ sử thi Mahabharata nói về cuộc chiến tranh khốc liệt giữa hai dòng họ Kaurava và Pandava, cả hai đều là dòng dõi vua Bharata vào khoảng thế kỷ 11 TCN đến thế kỷ 10 TCN. Do đó tên Mahabharata có nghĩa là "các truyện vĩ đại của triều đại nhà Bharata".

Bên cạnh nội dung chính, chỉ chiếm chừng 1/5 độ dài tác phẩm, bộ sử thi này còn có rất nhiều sự tích thần linh, những truyện ngụ ngôn về muông thú, những cuộc phiêu lưu và những câu chuyện tình thú vị, hấp dẫn ly kỳ (như chuyện nàng Savitri cãi lại Diêm vương để được lấy anh chàng đốn củi...). Nhưng trong tác phẩm Mahabharata, các giáo sĩ Ấn Độ giáo đã đưa vào những giáo lý triết học tự biện siêu hình về pháp (dharma), nghiệp (karma), về sự giải thoát (moksha), những ẩn dụ triết họcchâm ngôn xử thế...

18 phần

[sửa | sửa mã nguồn]

Sử thi gồm 18 phần, gọi là 18 parva:

  1. Adi
  2. Sabha
  3. Vana
  4. Vitara
  5. Udyoga
  6. Brishma
  7. Drona
  8. Karna
  9. Shalya
  10. Sauptika
  11. Stri
  12. Shanti
  13. Anushasana
  14. Ashvamedhika
  15. Ashramavasika
  16. Mausala
  17. Mahaprasthanika
  18. Svargarohana

Gia phả

[sửa | sửa mã nguồn]







Kurua


























































































































































































Anasawan

a


























































































































































































Parikshit(1)

a


























































































































































































Janamejaya(1)

a


























































































































































































Bheemasena(1)

a


























































































































































































Pratisravas

a


























































































































































































Pratipaa






















































































































































































Gangā


Shāntanua


Satyavati
















Pārāshara
























































































































































































Bhishma




Chitrāngada




Ambikā


Vichitravirya


Ambālikā




Vyāsa




























































































































































































Dhritarāshtrab


Gāndhāri


Shakuni


Surya 

Deva

a


Kunti


Pāndub


Mādri










































































































































































Karnac


Yudhishthirad


Bhimad


Arjunad


Subhadrā


Nakulad


Sahadevad




















































































































Duryodhanae


Dussalā


Dushāsana


(98 sons)





























































































































































































































Abhimanyuf


Uttarā


































































































































Parikshit









































































































































Janamejaya













































Ký hiệu

  • Nam: viền xanh
  • Nữ: viền đỏ
  • Chi Pandavahộp màu lục
  • Chi Kauravahộp màu vàng


Ảnh hưởng văn học

[sửa | sửa mã nguồn]

Bộ sử thi Mahabharata đã trở thành nguồn cảm hứng cho các thi nhân, nghệ sĩ sáng tác những tác phẩm vănthơnhạchọa và những công trình kiến trúcđiêu khắc trong nền văn học - nghệ thuật Ấn Độ và những nước chịu ảnh hưởng của nền văn học - nghệ thuật này.

Tục ngữ Ấn Độ có câu:

"Cái gì không tìm thấy ở trong Mahabharata thì cũng không thể tìm thấy được ở Ấn Độ"

Mahabharata và truyền thuyết An Dương Vương

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhà nghiên cứu, tu sĩ Phật giáo Lê Mạnh Thát cho rằng truyền thuyết An Dương Vương đánh bại vua Hùng thứ 18 và lập nên nhà nước Âu Lạc chỉ là một phiên bản của chuyện Mahabharata.[14]

Xem thêm

[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Datta, Amaresh (ngày 1 tháng 1 năm 2006). The Encyclopaedia of Indian Literature (Volume Two) (Devraj to Jyoti)ISBN 978-81-260-1194-0.
  2. ^ Austin, Christopher R. (2019). Pradyumna: Lover, Magician, and Son of the Avatara (bằng tiếng Anh). Oxford University Press. tr. 21. ISBN 978-0-19-005411-3.
  3. a b Brockington (1998, p. 26)
  4. ^ Pattanaik, Devdutt. "How did the 'Ramayana' and 'Mahabharata' come to be (and what has 'dharma' got to do with it)?"Scroll.in.
  5. ^ Van Buitenen; The Mahabharata – 1; The Book of the Beginning. Introduction (Authorship and Date)
  6. ^ James G. Lochtefeld (2002). The Illustrated Encyclopedia of Hinduism: A-M. The Rosen Publishing Group. tr. 399. ISBN 978-0-8239-3179-8.
  7. ^ T. R. S. Sharma; June Gaur; Sahitya Akademi (New Delhi, Inde). (2000). Ancient Indian Literature: An Anthology. Sahitya Akademi. tr. 137. ISBN 978-81-260-0794-3.
  8. ^ Spodek, Howard. Richard Mason. The World's History. Pearson Education: 2006, New Jersey. 224, 0-13-177318-6
  9. ^ Amartya Sen, The Argumentative Indian. Writings on Indian Culture, History and Identity, London: Penguin Books, 2005.
  10. ^ W. J. Johnson (1998). The Sauptikaparvan of the Mahabharata: The Massacre at NightOxford University Press. tr. ix. ISBN 978-0-19-282361-8.
  11. ^ Dio Chrysostom, 53.6-7, trans. H. Lamar Crosby, Loeb Classical Library, 1946, vol. 4, p. 363.
  12. ^ Christian Lassen, in his Indische Alterthumskunde, supposed that the reference is ultimately to Dhritarashtra's sorrows, the laments of Gandhari and Draupadi, and the valor of Arjuna and Suyodhana or Karna (cited approvingly in Max DunckerThe History of Antiquity (trans. Evelyn Abbott, London 1880), vol. 4, p. 81). This interpretation is endorsed in such standard references as Albrecht Weber's History of Indian Literature but has sometimes been repeated as fact instead of as interpretation.
  13. a b Ghadyalpatil, Abhiram (ngày 10 tháng 10 năm 2016). "Maharashtra builds up case for providing quotas to Marathas"Livemint (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2020.
  14. ^ "Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn động"Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 11 năm 2008. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Badrinath, Chaturvedi. The Mahābhārata: An Inquiry in the Human Condition, New Delhi, Orient Longman (2006)
  • Bandyopadhyaya, Jayantanuja (2008). Class and Religion in Ancient India. Anthem Press.
  • Basham, A. L. (1954). The Wonder That Was India: A Survey of the Culture of the Indian Sub-Continent Before The Coming of the Muslims. New York: Grove Press.
  • Bhasin, R.V. "Mahabharata" published by National Publications, India, 2007.
  • J. Brockington. The Sanskrit Epics, Leiden (1998).
  • Buitenen, Johannes Adrianus Bernardus (1978). The Mahābhārata. 3 volumes (translation / publication incomplete due to his death). University of Chicago Press.
  • Chaitanya, Krishna (K.K. Nair). The Mahabharata, A Literary Study, Clarion Books, New Delhi 1985.
  • Gupta, S.P. and Ramachandran, K.S. (ed.). Mahabharata: myth and reality. Agam Prakashan, New Delhi 1976.
  • Hiltebeitel, AlfThe Ritual of Battle, Krishna in the Mahabharata, SUNY Press, New York 1990.
  • Hopkins, E. W. The Great Epic of India, New York (1901).
  • Jyotirmayananda, Swami. Mysticism of the MahabharataYoga Research Foundation, Miami 1993.
  • Katz, Ruth Cecily Arjuna in the Mahabharata, University of South Carolina Press, Columbia 1989.
  • Keay, John (2000). India: A History. Grove Press. ISBN 978-0-8021-3797-5.
  • Majumdar, R. C. (general editor) (1951). The History and Culture of the Indian People: (Volume 1) The Vedic Age. London: George Allen & Unwin Ltd. {{Chú thích sách}}: |first= có tên chung (trợ giúp)
  • Lerner, Paule. Astrological Key in Mahabharata, David White (trans.) Motilal Banarsidass, New Delhi 1988.
  • Mallory, J. P (2005). In Search of the Indo-EuropeansThames & HudsonISBN 0-500-27616-1
  • Mehta, M. The problem of the double introduction to the MahabharataJAOS 93 (1973), 547–550.
  • Minkowski, C.Z. Janamehayas Sattra and Ritual Structure, JAOS 109 (1989), 410–420.
  • Minkowski, C.Z. 'Snakes, Sattras and the Mahabharata', in: Essays on the Mahabharata, ed. A. Sharma, Leiden (1991), 384–400.
  • Oldenberg, HermannZur Geschichte der Altindischen Prosa, Berlin (1917)
  • Oberlies, Th. 'The Counsels of the Seer Narada: Ritual on and under the Surface of the Mahabharata', in: New methods in the research of epic (ed. H. L. C. Tristram), Freiburg (1998).
  • Oldenberg, H. Das Mahabharata, Göttingen (1922).
  • PāṇiniAshtādhyāyīBook 4. Translated by Chandra Vasu. Benares, 1896. (bằng tiếng Phạn and tiếng Anh)
  • Pargiter, F.E. Ancient Indian Historical Tradition, London 1922. Repr. Motilal Banarsidass 1997.
  • Sattar, Arshia (transl.) (1996). The Rāmāyaṇa by Vālmīki. Viking. tr. 696. ISBN 978-0-14-029866-6.
  • Sukthankar, Vishnu S. and Shrimant Balasaheb Pant Pratinidhi (1933). The Mahabharata: for the first time critically editedBhandarkar Oriental Research Institute.
  • Sullivan, Bruce M. Seer of the Fifth Veda, Krsna Dvaipayana Vyasa in the Mahabharata, Motilal Banarsidass, New Delhi 1999.
  • Sutton, Nicholas. Religious Doctrines in the Mahabharata, Motilal Banarsidass, New Delhi 2000.
  • Utgikar, N. B. The mention of the Mahābhārata in the Ashvalayana Grhya Sutra, Proceedings and Transactions of the All-India Oriental Conference, Poona (1919), vol. 2, Poona (1922), 46–61.
  • Vaidya, R.V. A Study of Mahabharat; A Research, Poona, A.V.G. Prakashan, 1967
  • Witzel, MichaelEpics, Khilas and Puranas: Continuities and Ruptures, Proceedings of the Third Dubrovnik International Conference on the Sanskrit Epics and Puranas, ed. P. Koskiallio, Zagreb (2005), 21–80.

Đọc thêm

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Rajagopachari (2004) Sử thi Ấn Độ vĩ đại Mahabharata cùng với Chí Tôn Ca. Cao Huy Đỉnh, Phạm Thủy Ba, Nguyễn Quế Dương dịch. NXB Văn học.
  • DK (2021) Mahabharata bằng hình - Thiên sử thi vĩ đại nhất của Ấn Độ. Lê Thị Oanh dịch; Hồ Anh Thái hiệu đính. NXB Dân Trí.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn] Wikiquote có sưu tập danh ngôn về: Mahabharata

Tiếng Anh:

Tiếng Ấn Độ:

ẩn Các vị thần trong Ấn Độ giáo và kinh Ấn Độ giáo

Nam thần (

Deva

)

Hindu omkaar

Nữ thần (

Devi

)

Các vị thần khác

Kinh văn

Tiêu đề chuẩn Sửa dữ liệu tại Wikidata
Thể loại Tìm kiếm Mahabharata 138 ngôn ngữThêm đề tài




WikipediaBách khoa toàn thư mở

Tìm kiếm trên Wikipedia

Tìm kiếm

Quyên góp

Tạo tài khoản

Đăng nhập


Photograph your local culture, help Wikipedia and win!

Thu nhỏ

Tính năng Tạo tài khoản · Hướng dẫn người mới · Quy định · Viết bài mới · Chỗ thử · Câu thường hỏi · Sách hướng dẫn · Dịch bài · Thêm chú thích · Thảo luận · Liên hệ quản lý

Tiêu chuẩn bài viết Đủ độ nổi bật, văn phong trung lập và có nguồn đáng tin cậy · Không spam quảng cáo · Không vi phạm bản quyền · Cẩm nang biên soạn

Đóng (mở lại bằng cách xóa cookie dismissASN1 trong trình duyệt)

Nội dung ẩn

Đầu

Tham khảo lịch sử

Sơ lược

Nguồn gốc

Nội dung


18 phần

Gia phả

Ảnh hưởng văn học

Mahabharata và truyền thuyết An Dương Vương

Xem thêm

Chú thích

Tham khảo

Đọc thêm

Liên kết ngoài

Mahabharata


Bài viết

Thảo luận

Đọc

Sửa đổi

Sửa mã nguồn

Xem lịch sử


Công cụ

Giao diện ẩn

Văn bản


Nhỏ


Tiêu chuẩn


Lớn

Chiều rộng


Tiêu chuẩn


Rộng

Màu (beta)


Tự động


Sáng


Tối

Đây là một bài viết cơ bản. Nhấn vào đây để biết thêm thông tin.

Mahabharata

Mahabharata

Một trang diễn tả trận chiến Câu Lư trong Mahabharata

Information

Tôn giáo Ấn Độ giáo

Tác giả Vyasa

Ngôn ngữ Tiếng Phạn

Giai đoạn Chủ yếu biên soạn từ thế kỷ 3 TCN - 4 CN

Chương 18 Parvas

Verses 200,000

Mahabharata (chữ Devanagari: महाभारत - Mahābhārata), từ Hán-Việt là Ma-ha-bà-la-đa là một trong hai tác phẩm sử thi bằng tiếng Phạn vĩ đại nhất của Ấn Độ cổ đại, tác phẩm còn lại là Ramayana. Nội dung của tác phẩm nói về cuộc chiến giữa hai nhóm anh em họ trong cuộc chiến tranh Câu Lư (22 tháng 11, 3067 TCN—10 tháng 12, 3067 TCN? (kết thúc 18 ngày)) và số phận của các hoàng tử Kaurava và Pāṇḍava cùng những hậu nhân của họ.


Tác phẩm này cũng chứa những tài liệu về triết học và sự tôn sùng, chẳng hạn như cuộc thảo luận về bốn "mục đích của cuộc sống", hay còn gọi là puruṣārtha (12.161). Trong số các tác phẩm và những câu chuyện chính trong Mahābhārata là Bhagavad Gita, câu chuyện về nàng Damayanti, câu chuyện về Savitri và Satyavan, một phiên bản rút gọn của Rāmāyaṇa.[1]


Theo truyền thống, tác giả của Mahābhārata thường được cho là Vyāsa. Đã có nhiều nỗ lực để làm sáng tỏ sự lịch sử phát triển và các lớp cấu thành của nó. Phần lớn nội dung của Mahābhārata có lẽ được biên soạn giữa thế kỷ thứ 3 TCN và thế kỷ thứ 3 CN, với những phân đoạn cổ nhất vẫn còn được bảo tồn không sớm hơn năm 400 TCN.[2][3] Các sự kiện diễn ra trong sử thi có lẽ rơi vào giữa thế kỷ 9 và 8 TCN. Cuốn sử thi này có lẽ đã đạt đến hình thức cuối cùng của nó vào đầu thời kỳ Gupta (khoảng thế kỷ thứ 4).[3][4][5]


Mahābhārata là bài thiên trường ca nhất được biết đến và đã được mô tả là "bài thơ dài nhất từng được viết".[6][7] Phiên bản dài nhất của nó bao gồm hơn 100.000 loka hoặc hơn 200.000 câu thơ riêng lẻ (mỗi shloka là 2 câu) và các đoạn văn xuôi dài. Với tổng số khoảng 1.8 triệu chữ, Mahābhārata có độ dài gấp hơn 8 lần Iliad và Odyssey cộng lại, hoặc khoảng bốn lần chiều dài của Rāmāyaṇa.[8][9] Học giả W. J. Johnson đã so sánh tầm quan trọng của Mahābhārata trong bối cảnh văn minh thế giới với Kinh thánh, các tác phẩm của William Shakespeare, các tác phẩm của Homeros, kịch Hy Lạp hay Kinh Qur'an.[10] Trong truyền thống Ấn Độ, đôi khi Mahābhārata được gọi là kinh Vệ-đà thứ năm.


Tham khảo lịch sử

Các tài liệu tham khảo sớm nhất được biết đến nói về Mahabharata và lõi của nó Bharata có ghi ngày tháng là thời điểm Aṣṭādhyāyī (sutra 6.2.38) của Panini (fl. 4 TCN) và trong Aśvalāyana Gṛhyasūtra (3.4.4). Điều này có thể có nghĩa là 24.000 câu thơ cốt lõi, được gọi là Bhārata, cũng như phiên bản ban đầu của Mahābhārata mở rộng, được sáng tác vào thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên. Một báo cáo của nhà văn Hy Lạp Dio Chrysostom (khoảng 40 - 120 CN) về việc thơ của Homer được hát ngay cả ở Ấn Độ [11] dường như ngụ ý rằng Iliad đã được dịch sang tiếng Phạn. Tuy nhiên, các học giả Ấn Độ nói chung đã coi đây là bằng chứng cho sự tồn tại của một Mahābhārata vào thời điểm này, mà các tập của Dio hoặc các nguồn của ông xác định với câu chuyện của Iliad.[12]


Một số câu chuyện trong Mahābhārata mang bản sắc riêng biệt của chúng trong văn học Phạn ngữ Cổ điển. Ví dụ, Abhijñānaśākuntala của nhà thơ tiếng Phạn nổi tiếng Kālidāsa (khoảng năm 400 CN), được cho là sống trong thời đại của vương triều Gupta, dựa trên một câu chuyện tiền thân của Mahābhārata. Urubhaṅga, một vở kịch tiếng Phạn được viết bởi Bhāsa, người được cho là đã sống trước Kālidāsa, dựa trên việc giết chết Duryodhana bằng cách Bhīma xẻ đùi anh ta.[13]


Bản khắc trên đĩa đồng của Maharaja Sharvanatha (533–534 CN) từ Khoh (Quận Satna, Madhya Pradesh) mô tả Mahābhārata là một "bộ sưu tập 100.000 câu thơ" (śata-sahasri saṃhitā).[13]


Sơ lược

Mahabharata là một trong hai cuốn Sử thi tiếng Phạn (Sanskrit) Ấn Độ cổ, cuốn thứ hai là Ramayana. Mahabharata bao gồm 220.000 câu thơ đôi (sloka), là thiên sử thi dài nhất trên thế giới, gấp 8 lần tổng số câu thơ của hai bộ sử thi Hy Lạp cổ đại là Iliad và Odyssey. Tác phẩm này được coi là "Đại Bách khoa toàn thư" về văn hóa truyền thống, về các truyền thuyết và về các thể chế chính trị - xã hội của Ấn Độ cổ xưa. Nó là tấm gương phản chiếu toàn bộ đời sống con người Ấn Độ truyền thống như lời một câu ngạn ngữ cổ: "Cái gì không thấy được ở trong Mahabharata thì cũng không thể nào thấy được ở Ấn Độ."


Cuốn sử thi này cũng chiếm vị trí quan trọng trong triết học và tôn giáo tại Ấn Độ, do nó có lồng ghép cuộc đối thoại triết lý dài tới 700 câu thơ giữa dũng sĩ Arjuna và thần Krishna trước khi khai chiến. Phần thơ triết học kỳ diệu này được xem như một tác phẩm độc lập hoàn chỉnh mang tên Bhagavad Gita (Chí tôn ca), một kinh văn quan trọng hàng đầu của Ấn Độ giáo (đạo Hindu).


Nguồn gốc


Bản đồ Ấn Độ thời kỳ Mahabharata

Cái tên Mahabharata có thể được dịch thành: Bharath Vĩ Đại, mang nghĩa là Ấn Độ Vĩ Đại hay còn được hiểu là "Câu chuyện vĩ đại về triều vua Bharath".


Theo dân gian, cuốn Mahabharata được coi là tác phẩm của Vyasa. Với độ dài đáng kinh ngạc, những nghiên cứu ngữ văn về cuốn sử thi có một lịch sử dài làm sáng tỏ những đầu mối về sự phát triển và những lớp ngữ nghĩa. Tuy còn nhiều tranh cãi, cuốn sử thi được ước đoán ra đời chừng thế kỷ 8 - 9. Theo BKTTVN thì Mahabharata ra đời khoảng thế kỷ 5 TCN và được sửa chữa dần, hoàn thiện khoảng thế kỷ 5 CN.


Nội dung

Nội dung cơ bản của bộ sử thi Mahabharata nói về cuộc chiến tranh khốc liệt giữa hai dòng họ Kaurava và Pandava, cả hai đều là dòng dõi vua Bharata vào khoảng thế kỷ 11 TCN đến thế kỷ 10 TCN. Do đó tên Mahabharata có nghĩa là "các truyện vĩ đại của triều đại nhà Bharata".


Bên cạnh nội dung chính, chỉ chiếm chừng 1/5 độ dài tác phẩm, bộ sử thi này còn có rất nhiều sự tích thần linh, những truyện ngụ ngôn về muông thú, những cuộc phiêu lưu và những câu chuyện tình thú vị, hấp dẫn ly kỳ (như chuyện nàng Savitri cãi lại Diêm vương để được lấy anh chàng đốn củi...). Nhưng trong tác phẩm Mahabharata, các giáo sĩ Ấn Độ giáo đã đưa vào những giáo lý triết học tự biện siêu hình về pháp (dharma), nghiệp (karma), về sự giải thoát (moksha), những ẩn dụ triết học, châm ngôn xử thế...


Thần Krishna

Thần Krishna

Cái chết của Bhishma bên Pandavas và Krishna

Cái chết của Bhishma bên Pandavas và Krishna

18 phần

Sử thi gồm 18 phần, gọi là 18 parva:


Adi

Sabha

Vana

Vitara

Udyoga

Brishma

Drona

Karna

Shalya

Sauptika

Stri

Shanti

Anushasana

Ashvamedhika

Ashramavasika

Mausala

Mahaprasthanika

Svargarohana

Gia phả

Kurua

Anasawana

Parikshit(1)a

Janamejaya(1)a

Bheemasena(1)a

Pratisravasa

Pratipaa

Gangā Shāntanua Satyavati Pārāshara

Bhishma Chitrāngada Ambikā Vichitravirya Ambālikā Vyāsa

Dhritarāshtrab Gāndhāri Shakuni Surya Devaa Kunti Pāndub Mādri

Karnac Yudhishthirad Bhimad Arjunad Subhadrā Nakulad Sahadevad

Duryodhanae Dussalā Dushāsana (98 sons)

Abhimanyuf Uttarā

Parikshit

Janamejaya

Ký hiệu


Nam: viền xanh

Nữ: viền đỏ

Chi Pandava: hộp màu lục

Chi Kaurava: hộp màu vàng



Ảnh hưởng văn học

Bộ sử thi Mahabharata đã trở thành nguồn cảm hứng cho các thi nhân, nghệ sĩ sáng tác những tác phẩm văn, thơ, nhạc, họa và những công trình kiến trúc, điêu khắc trong nền văn học - nghệ thuật Ấn Độ và những nước chịu ảnh hưởng của nền văn học - nghệ thuật này.


Tục ngữ Ấn Độ có câu:


"Cái gì không tìm thấy ở trong Mahabharata thì cũng không thể tìm thấy được ở Ấn Độ"

Mahabharata và truyền thuyết An Dương Vương

Nhà nghiên cứu, tu sĩ Phật giáo Lê Mạnh Thát cho rằng truyền thuyết An Dương Vương đánh bại vua Hùng thứ 18 và lập nên nhà nước Âu Lạc chỉ là một phiên bản của chuyện Mahabharata.[14]


Xem thêm

Ramayana

Chú thích

^ Datta, Amaresh (ngày 1 tháng 1 năm 2006). The Encyclopaedia of Indian Literature (Volume Two) (Devraj to Jyoti). ISBN 978-81-260-1194-0.

^ Austin, Christopher R. (2019). Pradyumna: Lover, Magician, and Son of the Avatara (bằng tiếng Anh). Oxford University Press. tr. 21. ISBN 978-0-19-005411-3.

^ a b Brockington (1998, p. 26)

^ Pattanaik, Devdutt. "How did the 'Ramayana' and 'Mahabharata' come to be (and what has 'dharma' got to do with it)?". Scroll.in.

^ Van Buitenen; The Mahabharata – 1; The Book of the Beginning. Introduction (Authorship and Date)

^ James G. Lochtefeld (2002). The Illustrated Encyclopedia of Hinduism: A-M. The Rosen Publishing Group. tr. 399. ISBN 978-0-8239-3179-8.

^ T. R. S. Sharma; June Gaur; Sahitya Akademi (New Delhi, Inde). (2000). Ancient Indian Literature: An Anthology. Sahitya Akademi. tr. 137. ISBN 978-81-260-0794-3.

^ Spodek, Howard. Richard Mason. The World's History. Pearson Education: 2006, New Jersey. 224, 0-13-177318-6

^ Amartya Sen, The Argumentative Indian. Writings on Indian Culture, History and Identity, London: Penguin Books, 2005.

^ W. J. Johnson (1998). The Sauptikaparvan of the Mahabharata: The Massacre at Night. Oxford University Press. tr. ix. ISBN 978-0-19-282361-8.

^ Dio Chrysostom, 53.6-7, trans. H. Lamar Crosby, Loeb Classical Library, 1946, vol. 4, p. 363.

^ Christian Lassen, in his Indische Alterthumskunde, supposed that the reference is ultimately to Dhritarashtra's sorrows, the laments of Gandhari and Draupadi, and the valor of Arjuna and Suyodhana or Karna (cited approvingly in Max Duncker, The History of Antiquity (trans. Evelyn Abbott, London 1880), vol. 4, p. 81). This interpretation is endorsed in such standard references as Albrecht Weber's History of Indian Literature but has sometimes been repeated as fact instead of as interpretation.

^ a b Ghadyalpatil, Abhiram (ngày 10 tháng 10 năm 2016). "Maharashtra builds up case for providing quotas to Marathas". Livemint (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2020.

^ "Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn động". Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 11 năm 2008. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.

Tham khảo

Badrinath, Chaturvedi. The Mahābhārata: An Inquiry in the Human Condition, New Delhi, Orient Longman (2006)

Bandyopadhyaya, Jayantanuja (2008). Class and Religion in Ancient India. Anthem Press.

Basham, A. L. (1954). The Wonder That Was India: A Survey of the Culture of the Indian Sub-Continent Before The Coming of the Muslims. New York: Grove Press.

Bhasin, R.V. "Mahabharata" published by National Publications, India, 2007.

J. Brockington. The Sanskrit Epics, Leiden (1998).

Buitenen, Johannes Adrianus Bernardus (1978). The Mahābhārata. 3 volumes (translation / publication incomplete due to his death). University of Chicago Press.

Chaitanya, Krishna (K.K. Nair). The Mahabharata, A Literary Study, Clarion Books, New Delhi 1985.

Gupta, S.P. and Ramachandran, K.S. (ed.). Mahabharata: myth and reality. Agam Prakashan, New Delhi 1976.

Hiltebeitel, Alf. The Ritual of Battle, Krishna in the Mahabharata, SUNY Press, New York 1990.

Hopkins, E. W. The Great Epic of India, New York (1901).

Jyotirmayananda, Swami. Mysticism of the Mahabharata, Yoga Research Foundation, Miami 1993.

Katz, Ruth Cecily Arjuna in the Mahabharata, University of South Carolina Press, Columbia 1989.

Keay, John (2000). India: A History. Grove Press. ISBN 978-0-8021-3797-5.

Majumdar, R. C. (general editor) (1951). The History and Culture of the Indian People: (Volume 1) The Vedic Age. London: George Allen & Unwin Ltd. {{Chú thích sách}}: |first= có tên chung (trợ giúp)

Lerner, Paule. Astrological Key in Mahabharata, David White (trans.) Motilal Banarsidass, New Delhi 1988.

Mallory, J. P (2005). In Search of the Indo-Europeans. Thames & Hudson. ISBN 0-500-27616-1

Mehta, M. The problem of the double introduction to the Mahabharata, JAOS 93 (1973), 547–550.

Minkowski, C.Z. Janamehayas Sattra and Ritual Structure, JAOS 109 (1989), 410–420.

Minkowski, C.Z. 'Snakes, Sattras and the Mahabharata', in: Essays on the Mahabharata, ed. A. Sharma, Leiden (1991), 384–400.

Oldenberg, Hermann. Zur Geschichte der Altindischen Prosa, Berlin (1917)

Oberlies, Th. 'The Counsels of the Seer Narada: Ritual on and under the Surface of the Mahabharata', in: New methods in the research of epic (ed. H. L. C. Tristram), Freiburg (1998).

Oldenberg, H. Das Mahabharata, Göttingen (1922).

Pāṇini. Ashtādhyāyī. Book 4. Translated by Chandra Vasu. Benares, 1896. (bằng tiếng Phạn and tiếng Anh)

Pargiter, F.E. Ancient Indian Historical Tradition, London 1922. Repr. Motilal Banarsidass 1997.

Sattar, Arshia (transl.) (1996). The Rāmāyaṇa by Vālmīki. Viking. tr. 696. ISBN 978-0-14-029866-6.

Sukthankar, Vishnu S. and Shrimant Balasaheb Pant Pratinidhi (1933). The Mahabharata: for the first time critically edited. Bhandarkar Oriental Research Institute.

Sullivan, Bruce M. Seer of the Fifth Veda, Krsna Dvaipayana Vyasa in the Mahabharata, Motilal Banarsidass, New Delhi 1999.

Sutton, Nicholas. Religious Doctrines in the Mahabharata, Motilal Banarsidass, New Delhi 2000.

Utgikar, N. B. The mention of the Mahābhārata in the Ashvalayana Grhya Sutra, Proceedings and Transactions of the All-India Oriental Conference, Poona (1919), vol. 2, Poona (1922), 46–61.

Vaidya, R.V. A Study of Mahabharat; A Research, Poona, A.V.G. Prakashan, 1967

Witzel, Michael, Epics, Khilas and Puranas: Continuities and Ruptures, Proceedings of the Third Dubrovnik International Conference on the Sanskrit Epics and Puranas, ed. P. Koskiallio, Zagreb (2005), 21–80.

Đọc thêm

Rajagopachari (2004) Sử thi Ấn Độ vĩ đại Mahabharata cùng với Chí Tôn Ca. Cao Huy Đỉnh, Phạm Thủy Ba, Nguyễn Quế Dương dịch. NXB Văn học.

DK (2021) Mahabharata bằng hình - Thiên sử thi vĩ đại nhất của Ấn Độ. Lê Thị Oanh dịch; Hồ Anh Thái hiệu đính. NXB Dân Trí.

Liên kết ngoài


Wikiquote có sưu tập danh ngôn về:

Mahabharata

Tư liệu liên quan tới Mahabharata tại Wikimedia Commons

Tiếng Anh:


MahabharataOnline.com - Mahabharata Translations, Simple narrations, Stories and Scriptures

Mahabharata major ancient Sanskrit epics of India Lưu trữ ngày 11 tháng 2 năm 2007 tại Wayback Machine

[1] Lưu trữ ngày 7 tháng 11 năm 2010 tại Wayback Machine (transliterated) at Goettingen State and University Library

[2] (parallel in Devanāgarī and transliterated) at The Internet Sacred Text Archive

at sacred-texts.com

at bharatadesam.com

Mahabharata and Sindhu- Sarasvathi tradition, a paper by Subhash kak (pdf)

The Date Of The Mahabharata War Lưu trữ ngày 3 tháng 8 năm 2003 tại Wayback Machine

Vivekananda on the Mahabharata Lưu trữ ngày 23 tháng 2 năm 2007 tại Wayback Machine

WMBlake on the Mahabharata Lưu trữ ngày 19 tháng 11 năm 2006 tại Wayback Machine

Mahabaratham Pesukiradhu - Narration of the great epic Mahabarath in Tamil Lưu trữ ngày 19 tháng 12 năm 2006 tại Wayback Machine

Reading Suggestions Lưu trữ ngày 25 tháng 1 năm 2009 tại Wayback Machine J. F. Fitzgerald, University of Tennessee

Clay Sanskrit Library Lưu trữ ngày 7 tháng 7 năm 2019 tại Wayback Machine publishes classical Indian literature, including the Mahabharata and Ramayana, with facing-page text and translation. Also offers searchable corpus and downloadable materials.

Mahabharata Resources Page at its new home Resources on Mahabharata

Google Directory: Mahabharata Lưu trữ ngày 20 tháng 4 năm 2006 tại Wayback Machine

The Mahabharata trên Internet Movie Database 1989 movie directed by Peter Brook

Kalyug trên Internet Movie Database 1980 movie directed by Shyam Benegal. The movie is loosely based on the story of the Mahabharata and reinterprets the struggle for the kingdom in an industrial age, with two family factions fighting for the control of an industrial conglomerate.

Tiếng Ấn Độ:


古代梵文版本 Lưu trữ ngày 11 tháng 2 năm 2007 tại Wayback Machine

英文译本

最全的属于公有领域的英文译本

英文节译本 Lưu trữ ngày 21 tháng 12 năm 2004 tại Wayback Machine

1989年拍的电影

xts

Các vị thần trong Ấn Độ giáo và kinh Ấn Độ giáo

Nam thần (Deva)

Trimurti BrahmaVishnuShivaRamaKrishnaGaneshaKartikeyaHanumanIndraSuryaAgniVarunaVayuKamaYamaChandraAshvinsVishvakarmaKuberathêm

Hindu omkaar

Nữ thần (Devi)

Tridevi SaraswatiLakshmiParvatiDurgaKaliSitaRadhaRukminiShaktiSatiMahadeviMatrikasMahavidyaAditiShachiBhumiGangaRatiSanjnaChhayaRohinithêm

Các vị thần khác

ApsaraAsura DaityaDanavaGandharvaKuladevataGramadevataRakshasaVahanaYaksha

Kinh văn

Vệ đà RigSamaYajurAtharvaUpanishadsPuranasRamayanaMahabharata Bhagavad GitaYoga Sutras of Patanjalithêm

Ấn Độ giáoThần thoại Ấn Độ giáo

Tiêu đề chuẩn Sửa dữ liệu tại Wikidata

BIBSYS: 90354736BNE: XX4121889BNF: cb12009426d (data)GND: 4211841-4LCCN: n79061233LNB: 000182350MBW work: 1aa91475-aff6-43b0-8e03-4f1c3fbdc62cNDL: 00629287SUDOC: 028213238VcBA: 492/5624VIAF: 181826247WorldCat Identities (via VIAF): 181826247

Thể loại: Bài viết có nguồn tham khảo tiếng Phạn (sa)Sử thi Ấn ĐộẤn Độ cổ đạiMahabharata

Trang này được sửa đổi lần cuối vào ngày 27 tháng 1 năm 2025, 15:24.

Văn bản được phát hành theo Giấy phép Creative Commons Ghi công–Chia sẻ tương tự; có thể áp dụng điều khoản bổ sung. Với việc sử dụng trang web này, bạn chấp nhận Điều khoản Sử dụng và Quy định quyền riêng tư. Wikipedia® là thương hiệu đã đăng ký của Wikimedia Foundation, Inc., một tổ chức phi lợi nhuận.

Quy định quyền riêng tưGiới thiệu WikipediaLời phủ nhậnBộ Quy tắc Ứng xử ChungLập trình viênThống kêTuyên bố về cookiePhiên bản di động

Wikimedia Foundation

Powered by MediaWiki


Mahabharata


138 ngôn ngữ

Thêm đề tài


Tham khảo !!!

Muốn đạt được kết quả học tập tốt, mỗi học sinh cần xác định được mục đích trong học tập. Mục đích học tập của học sinh ngày nay không gì khác là nỗ lực học tập để trở thành con ngoan trò giỏi, người công dân tốt, phát triển toàn diện, trở thành người hữu ích, góp phần xây dựng gia đình, xã hội và đất nước. Việc xác định được mục đích học tập đúng đắn sẽ giúp học sinh có định hướng, ra sức say mê học tập đạt được kết quả cao nhất. Để thực hiện được mục đích ấy, mỗi học sinh phải tích cực xây dựng kế hoạch học tập đúng đắn, phù hợp với bản thân và kiên trì thực hiện kế ấy. Tích cực tu dưỡng đạo đức, siêng năng tập tốt ở lớp, ở trường và tự học ở nhà. Phải năng động, sáng tạo, tích cực đổi mới phương pháp học tập. Học từ sách vở và học trong cuộc sống. Học phải đi đôi với hành, tránh lối học tủ, học vẹt, học lệch các môn Có ước mơ, khát khao, hoài bão lớn lao ở tương lai. Xây dựng cuộc sống trong sạch, vững mạnh, tránh xa các thói xấu và tệ nạn xã hội. Học sinh không có mục đích trong học tập chẳng khắc nào mũi tên không có đích đến, không những không có động lực học tập mà sẽ sớm chán nản và bỏ dở việc học. Bởi vậy, muốn học tập tốt nhất định phải xác định rõ mục đích trong học tập và kiên trì học tập để đạt đến mục đích ấy. Con đường phía trước do mỗi chúng ta lựa chọn. Hãy là người có lựa chọn thông minh và đúng đắn để đi đến thành công.