

Trần Tấn Minh
Giới thiệu về bản thân



































Gemini
Trò chuyện với Gemini
Lược: Sau khi từ Sài Gòn trở về vì đau tim, Thứ bị thất nghiệp. Đích, anh họ Thứ, chung vốn với Oanh, vợ chưa cưới của Đích, mở một trường tư ở ngoại ô Hà Nội. Do được bổ đi làm ở xa, Đích mượn Thứ đứng chân hiệu trưởng và mời dạy mấy lớp. Ban đầu, Thứ rất hào hứng, tận tâm nhưng chỉ ít lâu, anh chán nghề… Bao nhiêu tiền thu được đều vào túi Oanh. Oanh không những bóc lột sức lao động của Thứ và San (một giáo viên của trường, dạy các lớp dưới) mà khi nấu cơm cho họ, Oanh còn bắt họ ăn uống quá kham khổ. Nhiều lần Thứ định nói chuyện dứt khoát với Oanh để giải thoát cho mình và tổ chức lại cái trường cho tử tế. Nhưng bản tính nhút nhát, do dự, sợ va chạm nên Thứ cứ ngần ngại, để tình trạng nặng nề kéo dài. Cuộc sống chung đụng ngày càng không chịu nổi vì thói keo bẩn, thớ lợ của Oanh. Thứ bực và buồn lắm vì thấy rằng sống với người nhỏ nhen thì mình cũng thành nhỏ nhen.)
Thứ không đáp. Y ngẫm nghĩ. Mặt y hầm hầm và đôi môi y chụm lại. Rồi y hằn học bảo:
– Kiếp chúng mình, tức lạ. Sao mà cái đời nó tù túng, nó chật hẹp, nó bần tiện thế! Không bao giờ dám nhìn cao một tí. Chỉ những lo ăn, lo mặc. Hình như tất cả nguyện vọng, tất cả mong ước, tất cả mục đích của đời chúng mình, chỉ là mỗi ngày hai bữa. Bao nhiêu tài trí, sức lực lo tính đều chỉ dùng vào việc ấy. Khổ sở cũng vì thế, nhục nhã cũng vì thế, mỏi mòn tài năng, trí óc, giết chết những mong ước đẹp, những hi vọng cao xa cũng vì thế nốt. Lúc nào cũng lo chết đói. Lúc nào cũng làm thế nào cho không chết đói! Như vậy thì sống làm gì cho cực?
Thứ vẫn không thể nào chịu được rằng sống chỉ làm thế nào cho mình và vợ con có cơm ăn, áo mặc thôi. Sống là để làm một cái gì đẹp hơn nhiều, cao quý hơn nhiều. Mỗi người sống, phải làm thế nào cho phát triển đến tận độ những khả năng của mình vào công cuộc tiến bộ chung. Mỗi người chết đi, phải để lại một chút gì cho nhân loại. Có thú vị gì là cái lối sống co quắp quá ư loài vật, chẳng biết việc gì ngoài cái việc kiếm thức ăn đổ vào cái dạ dày. Có ai muốn gục mặt xuống làm gì. Đau đớn thay cho những kiếp sống khao khát muốn lên cao nhưng lại bị áo cơm gì sát đất. Hỡi ôi! Người ta đã phí bao nhiêu tâm huyết, bao nhiêu công lao để giải thoát, từ bỏ tất cả những phú quý vinh hoa của đời mình. Vô ích cả, chừng nào nhân loại chưa thoát khỏi những xiềng xích của cái đói và cái rét. Thứ thường có những lúc sực nhớ đến những cao vọng của mình xưa, ngán ngẩm buồn, tiếc cho mình. Y cứ đinh ninh rằng giá y không bị nghèo thì có lẽ y không đến nỗi đớn hèn thế này đâu. Có lẽ y sẽ làm được một cái gì. Biết bao nhiêu tài năng không nảy nở được, chỉ vì không gặp được một cái hoàn cảnh tốt!
(Nam Cao, Sống mòn, in trong Tuyển tập Nam Cao, tập 2, NXB Văn học, Hà Nội, 2005, tr.259-260)
Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 6 (trình bày ngắn gọn):
Câu 1. Xác định ngôi kể được sử dụng trong văn bản.
Câu 2. Cuộc sống của người trí thức giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám được thể hiện như thế nào trong văn bản?
Câu 3. Phân tích tác dụng của câu cảm thán được dùng trong đoạn văn sau:
Hỡi ôi! Người ta đã phí bao nhiêu tâm huyết, bao nhiêu công lao để giải thoát, từ bỏ tất cả những phú quý vinh hoa của đời mình. Vô ích cả, chừng nào nhân loại chưa thoát khỏi những xiềng xích của cái đói và cái rét.
Câu 4. Xác định nội dung chính của văn bản trên.
Câu 5. Nhận xét về cách xây dựng nhân vật Thứ trong văn bản trên của tác giả.
Câu 6. Từ suy nghĩ của nhân vật Thứ rằng “Sống là để làm một cái gì đẹp hơn nhiều, cao quý hơn nhiều.”. Em hãy viết một đoạn văn ngắn (khoảng 5 – 7 dòng) nêu suy nghĩ của bản thân về giá trị của lí tưởng sống đối với mỗi người.
Bạn chưa trả lời câu hỏi này. Trả lời câu hỏi này
Bài 2
(4,0 điểm) Viết một bài văn (khoảng 600 chữ) trình bày suy nghĩ của em về câu tục ngữ “Giấy rách phải giữ lấy lề”.
Bạn chưa trả lời câu hỏi này. Trả lời câu hỏi này
Câu 1. Ngôi kể được sử dụng trong văn bản là ngôi thứ ba.
Câu 2. Cuộc sống của người trí thức giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám trong văn bản được thể hiện là cuộc sống nghèo khổ, tù túng, chật hẹp, và bần tiện. Họ phải lo lắng về cơm áo gạo tiền, bị bóc lột sức lao động, không có điều kiện để phát triển tài năng và thực hiện những ước mơ cao đẹp.
Câu 3. Câu cảm thán "Hỡi ôi! Người ta đã phí bao nhiêu tâm huyết, bao nhiêu công lao để giải thoát, từ bỏ tất cả những phú quý vinh hoa của đời mình. Vô ích cả, chừng nào nhân loại chưa thoát khỏi những xiềng xích của cái đói và cái rét." có tác dụng nhấn mạnh sự bất lực, nỗi đau đớn và bi kịch của những người có khát vọng cao cả nhưng lại bị trói buộc bởi gánh nặng cơm áo. Nó thể hiện sự xót xa cho những nỗ lực vô ích khi con người chưa được giải phóng khỏi những nhu cầu vật chất cơ bản.
Câu 4. Nội dung chính của văn bản là sự chán nản, bế tắc của nhân vật Thứ trước cuộc sống nghèo khổ, tù túng
Bạn đã dừng câu trả lời này
Lược: Sau khi từ Sài Gòn trở về vì đau tim, Thứ bị thất nghiệp. Đích, anh họ Thứ, chung vốn với Oanh, vợ chưa cưới của Đích, mở một trường tư ở ngoại ô Hà Nội. Do được bổ đi làm ở xa, Đích mượn Thứ đứng chân hiệu trưởng và mời dạy mấy lớp. Ban đầu, Thứ rất hào hứng, tận tâm nhưng chỉ ít lâu, anh chán nghề… Bao nhiêu tiền thu được đều vào túi Oanh. Oanh không những bóc lột sức lao động của Thứ và San (một giáo viên của trường, dạy các lớp dưới) mà khi nấu cơm cho họ, Oanh còn bắt họ ăn uống quá kham khổ. Nhiều lần Thứ định nói chuyện dứt khoát với Oanh để giải thoát cho mình và tổ chức lại cái trường cho tử tế. Nhưng bản tính nhút nhát, do dự, sợ va chạm nên Thứ cứ ngần ngại, để tình trạng nặng nề kéo dài. Cuộc sống chung đụng ngày càng không chịu nổi vì thói keo bẩn, thớ lợ của Oanh. Thứ bực và buồn lắm vì thấy rằng sống với người nhỏ nhen thì mình cũng thành nhỏ nhen.)
Thứ không đáp. Y ngẫm nghĩ. Mặt y hầm hầm và đôi môi y chụm lại. Rồi y hằn học bảo:
– Kiếp chúng mình, tức lạ. Sao mà cái đời nó tù túng, nó chật hẹp, nó bần tiện thế! Không bao giờ dám nhìn cao một tí. Chỉ những lo ăn, lo mặc. Hình như tất cả nguyện vọng, tất cả mong ước, tất cả mục đích của đời chúng mình, chỉ là mỗi ngày hai bữa. Bao nhiêu tài trí, sức lực lo tính đều chỉ dùng vào việc ấy. Khổ sở cũng vì thế, nhục nhã cũng vì thế, mỏi mòn tài năng, trí óc, giết chết những mong ước đẹp, những hi vọng cao xa cũng vì thế nốt. Lúc nào cũng lo chết đói. Lúc nào cũng làm thế nào cho không chết đói! Như vậy thì sống làm gì cho cực?
Thứ vẫn không thể nào chịu được rằng sống chỉ làm thế nào cho mình và vợ con có cơm ăn, áo mặc thôi. Sống là để làm một cái gì đẹp hơn nhiều, cao quý hơn nhiều. Mỗi người sống, phải làm thế nào cho phát triển đến tận độ những khả năng của mình vào công cuộc tiến bộ chung. Mỗi người chết đi, phải để lại một chút gì cho nhân loại. Có thú vị gì là cái lối sống co quắp quá ư loài vật, chẳng biết việc gì ngoài cái việc kiếm thức ăn đổ vào cái dạ dày. Có ai muốn gục mặt xuống làm gì. Đau đớn thay cho những kiếp sống khao khát muốn lên cao nhưng lại bị áo cơm gì sát đất. Hỡi ôi! Người ta đã phí bao nhiêu tâm huyết, bao nhiêu công lao để giải thoát, từ bỏ tất cả những phú quý vinh hoa của đời mình. Vô ích cả, chừng nào nhân loại chưa thoát khỏi những xiềng xích của cái đói và cái rét. Thứ thường có những lúc sực nhớ đến những cao vọng của mình xưa, ngán ngẩm buồn, tiếc cho mình. Y cứ đinh ninh rằng giá y không bị nghèo thì có lẽ y không đến nỗi đớn hèn thế này đâu. Có lẽ y sẽ làm được một cái gì. Biết bao nhiêu tài năng không nảy nở được, chỉ vì không gặp được một cái hoàn cảnh tốt!
(Nam Cao, Sống mòn, in trong Tuyển tập Nam Cao, tập 2, NXB Văn học, Hà Nội, 2005, tr.259-260)
Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 6 (trình bày ngắn gọn):
Câu 1. Xác định ngôi kể được sử dụng trong văn bản.
Câu 2. Cuộc sống của người trí thức giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám được thể hiện như thế nào trong văn bản?
Câu 3. Phân tích tác dụng của câu cảm thán được dùng trong đoạn văn sau:
Hỡi ôi! Người ta đã phí bao nhiêu tâm huyết, bao nhiêu công lao để giải thoát, từ bỏ tất cả những phú quý vinh hoa của đời mình. Vô ích cả, chừng nào nhân loại chưa thoát khỏi những xiềng xích của cái đói và cái rét.
Câu 4. Xác định nội dung chính của văn bản trên.
Câu 5. Nhận xét về cách xây dựng nhân vật Thứ trong văn bản trên của tác giả.
Câu 6. Từ suy nghĩ của nhân vật Thứ rằng “Sống là để làm một cái gì đẹp hơn nhiều, cao quý hơn nhiều.”. Em hãy viết một đoạn văn ngắn (khoảng 5 – 7 dòng) nêu suy nghĩ của bản thân về giá trị của lí tưởng sống đối với mỗi người.
Bạn chưa trả lời câu hỏi này. Trả lời câu hỏi này
Bài 2
(4,0 điểm) Viết một bài văn (khoảng 600 chữ) trình bày suy nghĩ của em về câu tục ngữ “Giấy rách phải giữ lấy lề”.
Bạn chưa trả lời câu hỏi này. Trả lời câu hỏi này
Câu 1. Ngôi kể thứ ba.
Câu 2. Cuộc sống của người trí thức trước Cách mạng tháng Tám hiện lên tù túng, chật hẹp, đầy lo toan về cơm áo. Họ bị bó buộc bởi hoàn cảnh vật chất, không thể thực hiện những khát vọng cao đẹp, tài năng bị thui chột.
Câu 3. Câu cảm thán "Hỡi ôi! Người ta đã phí bao nhiêu tâm huyết, bao nhiêu công lao để giải thoát, từ bỏ tất cả những phú quý vinh hoa của đời mình. Vô ích cả, chừng nào nhân loại chưa thoát khỏi những xiềng xích của cái đói và cái rét." thể hiện sự xót xa, bất lực trước thực tế nghiệt ngã. Nó nhấn mạnh sự lãng phí những nỗ lực cao cả khi con người vẫn bị trói buộc bởi nhu cầu vật chất cơ bản, đồng thời gợi lên niềm đau đớn cho những ước mơ không thể thực hiện.
Câu 4. Nội dung chính của văn bản là sự bế tắc, chán nản của nhân vật Thứ trước cuộc sống nghèo khổ, tầm thường và khát vọng vươn tới một cuộc sống có ý nghĩa cao đẹp hơn.
Câu 5. Tác giả đã xây dựng nhân vật Thứ là một người trí thức có ý thức về giá trị cuộc sống nhưng lại yếu đuối, nhút nhát, không dám đấu tranh để thay đổi hoàn cảnh. Sự giằng xé nội tâm giữa lý tưởng và thực tế đã khắc họa rõ nét bi kịch của người trí thức tiểu tư sản trong xã hội cũ.
Câu 6. Suy nghĩ của nhân vật Thứ "Sống là để làm một cái gì đẹp hơn nhiều, cao quý hơn nhiều" cho thấy lí tưởng sống có vai trò vô cùng quan trọng đối với mỗi người. Lí tưởng là mục tiêu, là động lực giúp con người vượt qua khó khăn, hướng tới những giá trị tốt đẹp. Nó mang lại ý nghĩa cho cuộc sống, giúp mỗi cá nhân phát triển bản thân và đóng góp vào sự tiến bộ chung của xã hội. Một người có lí tưởng sống cao đẹp sẽ không chấp nhận cuộc sống tầm thường, vô vị mà luôn khao khát cống hiến và tạo ra những giá trị tích cực.
Viết một bài văn (khoảng 600 chữ) trình bày suy nghĩ của em về câu tục ngữ “Giấy rách phải giữ lấy lề”.
Giấy rách phải giữ lấy lề: Vẻ đẹp của sự trân trọng và ý thức giữ gìn
Trong kho tàng tục ngữ Việt Nam, câu "Giấy rách phải giữ lấy lề" là một lời khuyên giản dị nhưng ẩn chứa triết lý sâu sắc về cách ứng xử với những gì thuộc về mình, dù cho chúng có khiếm khuyết, tàn phai. Câu tục ngữ không chỉ đề cập đến một vật cụ thể là tờ giấy, mà còn mang ý nghĩa tượng trưng, gợi mở cho chúng ta nhiều suy ngẫm về thái độ sống, về sự trân trọng những giá trị và ý thức giữ gìn bản sắc cá nhân, gia đình, và cộng đồng.
Trước hết, xét về nghĩa đen, câu tục ngữ nhắc nhở chúng ta ngay cả khi tờ giấy đã bị rách, không còn nguyên vẹn, thì phần lề - đường viền xung quanh - vẫn cần được giữ gìn cẩn thận. Lề giấy là nơi định hình, tạo nên sự hoàn chỉnh tương đối cho tờ giấy. Dù phần nội dung có thể bị hư hại, nhưng lề còn nguyên vẹn cho thấy sự tôn trọng đối với hình hài ban đầu của nó, một sự nỗ lực để duy trì những gì còn sót lại. Hình ảnh này gợi cho chúng ta suy nghĩ về những điều không còn hoàn hảo trong cuộc sống. Có thể là một đồ vật cũ kỹ, một mối quan hệ sứt mẻ, hay thậm chí là những khía cạnh không mấy tốt đẹp trong chính con người mình. Dù vậy, việc "giữ lấy lề" ở đây tượng trưng cho thái độ trân trọng quá khứ, những giá trị cốt lõi, và nỗ lực duy trì những gì có thể.
Mở rộng hơn, câu tục ngữ mang ý nghĩa sâu sắc về ý thức giữ gìn phẩm giá và bản sắc. "Giấy rách" có thể được hiểu như những khó khăn, thử thách, những vấp ngã, hay thậm chí là những điều tiếng không hay mà mỗi người có thể gặp phải trong cuộc đời. Những điều này có thể làm tổn thương, làm "rách" đi hình ảnh, danh dự của chúng ta. Tuy nhiên, "giữ lấy lề" chính là giữ vững những nguyên tắc sống tốt đẹp, những giá trị đạo đức mà chúng ta đã xây dựng. Dù trong hoàn cảnh khó khăn, dù bị vùi dập bởi những sóng gió, việc giữ gìn nhân cách, phẩm hạnh, lòng tự trọng sẽ giúp chúng ta không đánh mất bản thân, không bị cuốn theo những điều tiêu cực. Nó là sức mạnh nội tại, là điểm tựa vững chắc để mỗi người đứng vững và vượt qua nghịch cảnh.
Câu tục ngữ còn mang ý nghĩa về sự trân trọng những giá trị truyền thống, những di sản văn hóa của gia đình, dòng họ và cộng đồng. "Giấy rách" có thể tượng trưng cho những yếu tố đang dần bị mai một, phai nhạt theo thời gian. "Giữ lấy lề" chính là ý thức bảo tồn, gìn giữ những nét đẹp văn hóa, những phong tục tập quán tốt đẹp, những giá trị đạo đức truyền thống. Dù xã hội có nhiều thay đổi, dù có những yếu tố ngoại lai tác động, việc trân trọng và duy trì những giá trị cốt lõi của dân tộc, của gia đình sẽ giúp chúng ta không bị hòa tan, không đánh mất cội nguồn.
Tuy nhiên, cũng cần nhìn nhận câu tục ngữ một cách biện chứng. Trong một số trường hợp, "giấy rách" đã quá mục nát, không còn giá trị sử dụng, việc cố gắng "giữ lấy lề" có thể trở nên vô ích, thậm chí là gánh nặng. Ý nghĩa sâu xa của câu tục ngữ không phải là sự bảo thủ, níu kéo những điều đã hoàn toàn lỗi thời, mà là sự trân trọng những giá trị tốt đẹp, những điều còn có thể duy trì và phát triển. Chúng ta cần có sự tỉnh táo để phân biệt đâu là "lề" cần giữ gìn và đâu là những "rách" cần mạnh dạn thay đổi để hướng tới những điều tốt đẹp hơn.
Tóm lại, câu tục ngữ "Giấy rách phải giữ lấy lề" là một lời nhắc nhở sâu sắc về thái độ sống trân trọng và ý thức giữ gìn. Nó khuyên chúng ta dù trong hoàn cảnh nào, dù những gì thuộc về mình có khiếm khuyết, hãy luôn cố gắng bảo vệ những giá trị cốt lõi, giữ gìn phẩm giá và bản sắc. Đây là một bài học quý giá, có ý nghĩa thiết thực trong cuộc sống hiện đại, khi mà những giá trị truyền thống đang dần bị thử thách và mỗi cá nhân cần có ý thức mạnh mẽ hơn về việc bảo vệ những gì làm nên bản sắc của chính mình và cộng đồng.
Gemini
Trò chuyện với Gemini
Lược: Sau khi từ Sài Gòn trở về vì đau tim, Thứ bị thất nghiệp. Đích, anh họ Thứ, chung vốn với Oanh, vợ chưa cưới của Đích, mở một trường tư ở ngoại ô Hà Nội. Do được bổ đi làm ở xa, Đích mượn Thứ đứng chân hiệu trưởng và mời dạy mấy lớp. Ban đầu, Thứ rất hào hứng, tận tâm nhưng chỉ ít lâu, anh chán nghề… Bao nhiêu tiền thu được đều vào túi Oanh. Oanh không những bóc lột sức lao động của Thứ và San (một giáo viên của trường, dạy các lớp dưới) mà khi nấu cơm cho họ, Oanh còn bắt họ ăn uống quá kham khổ. Nhiều lần Thứ định nói chuyện dứt khoát với Oanh để giải thoát cho mình và tổ chức lại cái trường cho tử tế. Nhưng bản tính nhút nhát, do dự, sợ va chạm nên Thứ cứ ngần ngại, để tình trạng nặng nề kéo dài. Cuộc sống chung đụng ngày càng không chịu nổi vì thói keo bẩn, thớ lợ của Oanh. Thứ bực và buồn lắm vì thấy rằng sống với người nhỏ nhen thì mình cũng thành nhỏ nhen.)
Thứ không đáp. Y ngẫm nghĩ. Mặt y hầm hầm và đôi môi y chụm lại. Rồi y hằn học bảo:
– Kiếp chúng mình, tức lạ. Sao mà cái đời nó tù túng, nó chật hẹp, nó bần tiện thế! Không bao giờ dám nhìn cao một tí. Chỉ những lo ăn, lo mặc. Hình như tất cả nguyện vọng, tất cả mong ước, tất cả mục đích của đời chúng mình, chỉ là mỗi ngày hai bữa. Bao nhiêu tài trí, sức lực lo tính đều chỉ dùng vào việc ấy. Khổ sở cũng vì thế, nhục nhã cũng vì thế, mỏi mòn tài năng, trí óc, giết chết những mong ước đẹp, những hi vọng cao xa cũng vì thế nốt. Lúc nào cũng lo chết đói. Lúc nào cũng làm thế nào cho không chết đói! Như vậy thì sống làm gì cho cực?
Thứ vẫn không thể nào chịu được rằng sống chỉ làm thế nào cho mình và vợ con có cơm ăn, áo mặc thôi. Sống là để làm một cái gì đẹp hơn nhiều, cao quý hơn nhiều. Mỗi người sống, phải làm thế nào cho phát triển đến tận độ những khả năng của mình vào công cuộc tiến bộ chung. Mỗi người chết đi, phải để lại một chút gì cho nhân loại. Có thú vị gì là cái lối sống co quắp quá ư loài vật, chẳng biết việc gì ngoài cái việc kiếm thức ăn đổ vào cái dạ dày. Có ai muốn gục mặt xuống làm gì. Đau đớn thay cho những kiếp sống khao khát muốn lên cao nhưng lại bị áo cơm gì sát đất. Hỡi ôi! Người ta đã phí bao nhiêu tâm huyết, bao nhiêu công lao để giải thoát, từ bỏ tất cả những phú quý vinh hoa của đời mình. Vô ích cả, chừng nào nhân loại chưa thoát khỏi những xiềng xích của cái đói và cái rét. Thứ thường có những lúc sực nhớ đến những cao vọng của mình xưa, ngán ngẩm buồn, tiếc cho mình. Y cứ đinh ninh rằng giá y không bị nghèo thì có lẽ y không đến nỗi đớn hèn thế này đâu. Có lẽ y sẽ làm được một cái gì. Biết bao nhiêu tài năng không nảy nở được, chỉ vì không gặp được một cái hoàn cảnh tốt!
(Nam Cao, Sống mòn, in trong Tuyển tập Nam Cao, tập 2, NXB Văn học, Hà Nội, 2005, tr.259-260)
Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 6 (trình bày ngắn gọn):
Câu 1. Xác định ngôi kể được sử dụng trong văn bản.
Câu 2. Cuộc sống của người trí thức giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám được thể hiện như thế nào trong văn bản?
Câu 3. Phân tích tác dụng của câu cảm thán được dùng trong đoạn văn sau:
Hỡi ôi! Người ta đã phí bao nhiêu tâm huyết, bao nhiêu công lao để giải thoát, từ bỏ tất cả những phú quý vinh hoa của đời mình. Vô ích cả, chừng nào nhân loại chưa thoát khỏi những xiềng xích của cái đói và cái rét.
Câu 4. Xác định nội dung chính của văn bản trên.
Câu 5. Nhận xét về cách xây dựng nhân vật Thứ trong văn bản trên của tác giả.
Câu 6. Từ suy nghĩ của nhân vật Thứ rằng “Sống là để làm một cái gì đẹp hơn nhiều, cao quý hơn nhiều.”. Em hãy viết một đoạn văn ngắn (khoảng 5 – 7 dòng) nêu suy nghĩ của bản thân về giá trị của lí tưởng sống đối với mỗi người.
Bạn chưa trả lời câu hỏi này. Trả lời câu hỏi này
Bài 2
(4,0 điểm) Viết một bài văn (khoảng 600 chữ) trình bày suy nghĩ của em về câu tục ngữ “Giấy rách phải giữ lấy lề”.
Bạn chưa trả lời câu hỏi này. Trả lời câu hỏi này
Câu 1. Ngôi kể được sử dụng trong văn bản là ngôi thứ ba.
Câu 2. Cuộc sống của người trí thức giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám trong văn bản được thể hiện là cuộc sống nghèo khổ, tù túng, chật hẹp, và bần tiện. Họ phải lo lắng về cơm áo gạo tiền, bị bóc lột sức lao động, không có điều kiện để phát triển tài năng và thực hiện những ước mơ cao đẹp.
Câu 3. Câu cảm thán "Hỡi ôi! Người ta đã phí bao nhiêu tâm huyết, bao nhiêu công lao để giải thoát, từ bỏ tất cả những phú quý vinh hoa của đời mình. Vô ích cả, chừng nào nhân loại chưa thoát khỏi những xiềng xích của cái đói và cái rét." có tác dụng nhấn mạnh sự bất lực, nỗi đau đớn và bi kịch của những người có khát vọng cao cả nhưng lại bị trói buộc bởi gánh nặng cơm áo. Nó thể hiện sự xót xa cho những nỗ lực vô ích khi con người chưa được giải phóng khỏi những nhu cầu vật chất cơ bản.
Câu 4. Nội dung chính của văn bản là sự chán nản, bế tắc của nhân vật Thứ trước cuộc sống nghèo khổ, tù túng
Bạn đã dừng câu trả lời này
Lược: Sau khi từ Sài Gòn trở về vì đau tim, Thứ bị thất nghiệp. Đích, anh họ Thứ, chung vốn với Oanh, vợ chưa cưới của Đích, mở một trường tư ở ngoại ô Hà Nội. Do được bổ đi làm ở xa, Đích mượn Thứ đứng chân hiệu trưởng và mời dạy mấy lớp. Ban đầu, Thứ rất hào hứng, tận tâm nhưng chỉ ít lâu, anh chán nghề… Bao nhiêu tiền thu được đều vào túi Oanh. Oanh không những bóc lột sức lao động của Thứ và San (một giáo viên của trường, dạy các lớp dưới) mà khi nấu cơm cho họ, Oanh còn bắt họ ăn uống quá kham khổ. Nhiều lần Thứ định nói chuyện dứt khoát với Oanh để giải thoát cho mình và tổ chức lại cái trường cho tử tế. Nhưng bản tính nhút nhát, do dự, sợ va chạm nên Thứ cứ ngần ngại, để tình trạng nặng nề kéo dài. Cuộc sống chung đụng ngày càng không chịu nổi vì thói keo bẩn, thớ lợ của Oanh. Thứ bực và buồn lắm vì thấy rằng sống với người nhỏ nhen thì mình cũng thành nhỏ nhen.)
Thứ không đáp. Y ngẫm nghĩ. Mặt y hầm hầm và đôi môi y chụm lại. Rồi y hằn học bảo:
– Kiếp chúng mình, tức lạ. Sao mà cái đời nó tù túng, nó chật hẹp, nó bần tiện thế! Không bao giờ dám nhìn cao một tí. Chỉ những lo ăn, lo mặc. Hình như tất cả nguyện vọng, tất cả mong ước, tất cả mục đích của đời chúng mình, chỉ là mỗi ngày hai bữa. Bao nhiêu tài trí, sức lực lo tính đều chỉ dùng vào việc ấy. Khổ sở cũng vì thế, nhục nhã cũng vì thế, mỏi mòn tài năng, trí óc, giết chết những mong ước đẹp, những hi vọng cao xa cũng vì thế nốt. Lúc nào cũng lo chết đói. Lúc nào cũng làm thế nào cho không chết đói! Như vậy thì sống làm gì cho cực?
Thứ vẫn không thể nào chịu được rằng sống chỉ làm thế nào cho mình và vợ con có cơm ăn, áo mặc thôi. Sống là để làm một cái gì đẹp hơn nhiều, cao quý hơn nhiều. Mỗi người sống, phải làm thế nào cho phát triển đến tận độ những khả năng của mình vào công cuộc tiến bộ chung. Mỗi người chết đi, phải để lại một chút gì cho nhân loại. Có thú vị gì là cái lối sống co quắp quá ư loài vật, chẳng biết việc gì ngoài cái việc kiếm thức ăn đổ vào cái dạ dày. Có ai muốn gục mặt xuống làm gì. Đau đớn thay cho những kiếp sống khao khát muốn lên cao nhưng lại bị áo cơm gì sát đất. Hỡi ôi! Người ta đã phí bao nhiêu tâm huyết, bao nhiêu công lao để giải thoát, từ bỏ tất cả những phú quý vinh hoa của đời mình. Vô ích cả, chừng nào nhân loại chưa thoát khỏi những xiềng xích của cái đói và cái rét. Thứ thường có những lúc sực nhớ đến những cao vọng của mình xưa, ngán ngẩm buồn, tiếc cho mình. Y cứ đinh ninh rằng giá y không bị nghèo thì có lẽ y không đến nỗi đớn hèn thế này đâu. Có lẽ y sẽ làm được một cái gì. Biết bao nhiêu tài năng không nảy nở được, chỉ vì không gặp được một cái hoàn cảnh tốt!
(Nam Cao, Sống mòn, in trong Tuyển tập Nam Cao, tập 2, NXB Văn học, Hà Nội, 2005, tr.259-260)
Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 6 (trình bày ngắn gọn):
Câu 1. Xác định ngôi kể được sử dụng trong văn bản.
Câu 2. Cuộc sống của người trí thức giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám được thể hiện như thế nào trong văn bản?
Câu 3. Phân tích tác dụng của câu cảm thán được dùng trong đoạn văn sau:
Hỡi ôi! Người ta đã phí bao nhiêu tâm huyết, bao nhiêu công lao để giải thoát, từ bỏ tất cả những phú quý vinh hoa của đời mình. Vô ích cả, chừng nào nhân loại chưa thoát khỏi những xiềng xích của cái đói và cái rét.
Câu 4. Xác định nội dung chính của văn bản trên.
Câu 5. Nhận xét về cách xây dựng nhân vật Thứ trong văn bản trên của tác giả.
Câu 6. Từ suy nghĩ của nhân vật Thứ rằng “Sống là để làm một cái gì đẹp hơn nhiều, cao quý hơn nhiều.”. Em hãy viết một đoạn văn ngắn (khoảng 5 – 7 dòng) nêu suy nghĩ của bản thân về giá trị của lí tưởng sống đối với mỗi người.
Bạn chưa trả lời câu hỏi này. Trả lời câu hỏi này
Bài 2
(4,0 điểm) Viết một bài văn (khoảng 600 chữ) trình bày suy nghĩ của em về câu tục ngữ “Giấy rách phải giữ lấy lề”.
Bạn chưa trả lời câu hỏi này. Trả lời câu hỏi này
Câu 1. Ngôi kể thứ ba.
Câu 2. Cuộc sống của người trí thức trước Cách mạng tháng Tám hiện lên tù túng, chật hẹp, đầy lo toan về cơm áo. Họ bị bó buộc bởi hoàn cảnh vật chất, không thể thực hiện những khát vọng cao đẹp, tài năng bị thui chột.
Câu 3. Câu cảm thán "Hỡi ôi! Người ta đã phí bao nhiêu tâm huyết, bao nhiêu công lao để giải thoát, từ bỏ tất cả những phú quý vinh hoa của đời mình. Vô ích cả, chừng nào nhân loại chưa thoát khỏi những xiềng xích của cái đói và cái rét." thể hiện sự xót xa, bất lực trước thực tế nghiệt ngã. Nó nhấn mạnh sự lãng phí những nỗ lực cao cả khi con người vẫn bị trói buộc bởi nhu cầu vật chất cơ bản, đồng thời gợi lên niềm đau đớn cho những ước mơ không thể thực hiện.
Câu 4. Nội dung chính của văn bản là sự bế tắc, chán nản của nhân vật Thứ trước cuộc sống nghèo khổ, tầm thường và khát vọng vươn tới một cuộc sống có ý nghĩa cao đẹp hơn.
Câu 5. Tác giả đã xây dựng nhân vật Thứ là một người trí thức có ý thức về giá trị cuộc sống nhưng lại yếu đuối, nhút nhát, không dám đấu tranh để thay đổi hoàn cảnh. Sự giằng xé nội tâm giữa lý tưởng và thực tế đã khắc họa rõ nét bi kịch của người trí thức tiểu tư sản trong xã hội cũ.
Câu 6. Suy nghĩ của nhân vật Thứ "Sống là để làm một cái gì đẹp hơn nhiều, cao quý hơn nhiều" cho thấy lí tưởng sống có vai trò vô cùng quan trọng đối với mỗi người. Lí tưởng là mục tiêu, là động lực giúp con người vượt qua khó khăn, hướng tới những giá trị tốt đẹp. Nó mang lại ý nghĩa cho cuộc sống, giúp mỗi cá nhân phát triển bản thân và đóng góp vào sự tiến bộ chung của xã hội. Một người có lí tưởng sống cao đẹp sẽ không chấp nhận cuộc sống tầm thường, vô vị mà luôn khao khát cống hiến và tạo ra những giá trị tích cực.
Viết một bài văn (khoảng 600 chữ) trình bày suy nghĩ của em về câu tục ngữ “Giấy rách phải giữ lấy lề”.
Giấy rách phải giữ lấy lề: Vẻ đẹp của sự trân trọng và ý thức giữ gìn
Trong kho tàng tục ngữ Việt Nam, câu "Giấy rách phải giữ lấy lề" là một lời khuyên giản dị nhưng ẩn chứa triết lý sâu sắc về cách ứng xử với những gì thuộc về mình, dù cho chúng có khiếm khuyết, tàn phai. Câu tục ngữ không chỉ đề cập đến một vật cụ thể là tờ giấy, mà còn mang ý nghĩa tượng trưng, gợi mở cho chúng ta nhiều suy ngẫm về thái độ sống, về sự trân trọng những giá trị và ý thức giữ gìn bản sắc cá nhân, gia đình, và cộng đồng.
Trước hết, xét về nghĩa đen, câu tục ngữ nhắc nhở chúng ta ngay cả khi tờ giấy đã bị rách, không còn nguyên vẹn, thì phần lề - đường viền xung quanh - vẫn cần được giữ gìn cẩn thận. Lề giấy là nơi định hình, tạo nên sự hoàn chỉnh tương đối cho tờ giấy. Dù phần nội dung có thể bị hư hại, nhưng lề còn nguyên vẹn cho thấy sự tôn trọng đối với hình hài ban đầu của nó, một sự nỗ lực để duy trì những gì còn sót lại. Hình ảnh này gợi cho chúng ta suy nghĩ về những điều không còn hoàn hảo trong cuộc sống. Có thể là một đồ vật cũ kỹ, một mối quan hệ sứt mẻ, hay thậm chí là những khía cạnh không mấy tốt đẹp trong chính con người mình. Dù vậy, việc "giữ lấy lề" ở đây tượng trưng cho thái độ trân trọng quá khứ, những giá trị cốt lõi, và nỗ lực duy trì những gì có thể.
Mở rộng hơn, câu tục ngữ mang ý nghĩa sâu sắc về ý thức giữ gìn phẩm giá và bản sắc. "Giấy rách" có thể được hiểu như những khó khăn, thử thách, những vấp ngã, hay thậm chí là những điều tiếng không hay mà mỗi người có thể gặp phải trong cuộc đời. Những điều này có thể làm tổn thương, làm "rách" đi hình ảnh, danh dự của chúng ta. Tuy nhiên, "giữ lấy lề" chính là giữ vững những nguyên tắc sống tốt đẹp, những giá trị đạo đức mà chúng ta đã xây dựng. Dù trong hoàn cảnh khó khăn, dù bị vùi dập bởi những sóng gió, việc giữ gìn nhân cách, phẩm hạnh, lòng tự trọng sẽ giúp chúng ta không đánh mất bản thân, không bị cuốn theo những điều tiêu cực. Nó là sức mạnh nội tại, là điểm tựa vững chắc để mỗi người đứng vững và vượt qua nghịch cảnh.
Câu tục ngữ còn mang ý nghĩa về sự trân trọng những giá trị truyền thống, những di sản văn hóa của gia đình, dòng họ và cộng đồng. "Giấy rách" có thể tượng trưng cho những yếu tố đang dần bị mai một, phai nhạt theo thời gian. "Giữ lấy lề" chính là ý thức bảo tồn, gìn giữ những nét đẹp văn hóa, những phong tục tập quán tốt đẹp, những giá trị đạo đức truyền thống. Dù xã hội có nhiều thay đổi, dù có những yếu tố ngoại lai tác động, việc trân trọng và duy trì những giá trị cốt lõi của dân tộc, của gia đình sẽ giúp chúng ta không bị hòa tan, không đánh mất cội nguồn.
Tuy nhiên, cũng cần nhìn nhận câu tục ngữ một cách biện chứng. Trong một số trường hợp, "giấy rách" đã quá mục nát, không còn giá trị sử dụng, việc cố gắng "giữ lấy lề" có thể trở nên vô ích, thậm chí là gánh nặng. Ý nghĩa sâu xa của câu tục ngữ không phải là sự bảo thủ, níu kéo những điều đã hoàn toàn lỗi thời, mà là sự trân trọng những giá trị tốt đẹp, những điều còn có thể duy trì và phát triển. Chúng ta cần có sự tỉnh táo để phân biệt đâu là "lề" cần giữ gìn và đâu là những "rách" cần mạnh dạn thay đổi để hướng tới những điều tốt đẹp hơn.
Tóm lại, câu tục ngữ "Giấy rách phải giữ lấy lề" là một lời nhắc nhở sâu sắc về thái độ sống trân trọng và ý thức giữ gìn. Nó khuyên chúng ta dù trong hoàn cảnh nào, dù những gì thuộc về mình có khiếm khuyết, hãy luôn cố gắng bảo vệ những giá trị cốt lõi, giữ gìn phẩm giá và bản sắc. Đây là một bài học quý giá, có ý nghĩa thiết thực trong cuộc sống hiện đại, khi mà những giá trị truyền thống đang dần bị thử thách và mỗi cá nhân cần có ý thức mạnh mẽ hơn về việc bảo vệ những gì làm nên bản sắc của chính mình và cộng đồng.
Trong bài thơ Tràng Giang của Huy Cận, câu thơ “Lòng quê dợn dợn vời con nước” gợi lên một nỗi nhớ xa xăm, man mác. Nỗi nhớ ấy không ồn ào mà lặng lẽ, thấm sâu như làn sóng lăn tăn giữa lòng người và dòng nước. Vẻ đẹp của nỗi nhớ ở đây là sự hòa quyện giữa không gian sông nước mênh mang và tâm hồn thi sĩ luôn hướng về quê hương. Chính điều đó tạo nên chiều sâu và chất trữ tình đặc sắc cho bài thơ.
---
Câu 1.
Vấn đề trọng tâm mà văn bản nêu lên là:
Nỗi nhớ trong bài thơ "Tây Tiến" và vai trò sáng tạo nghệ thuật của nỗi nhớ trong tổ chức thi phẩm.
Câu 2.
Luận điểm của đoạn (1):
Việc Quang Dũng đổi nhan đề từ "Nhớ Tây Tiến" thành "Tây Tiến" không chỉ vì sự tinh gọn mà còn nhằm khái quát hóa, thể hiện chất kiêu hùng và bao quát của tác phẩm.
Câu 3.
a. Thành phần biệt lập:
Dường như → đây là thành phần tình thái thể hiện phỏng đoán.
b. Kiểu câu xét về mục đích nói:
Câu “Lạ thay là ngôn ngữ thơ!” là câu cảm thán, bộc lộ cảm xúc ngạc nhiên, khâm phục.
Câu 4.
Mối quan hệ giữa luận điểm, lí lẽ và bằng chứng trong đoạn (2):
Luận điểm: Nỗi nhớ trong “Tây Tiến” được biểu đạt bằng ngôn từ lạ, ám ảnh.
Lí lẽ: Các từ như “nhớ chơi vơi”, “nhớ ôi” gợi cảm xúc sâu sắc, khó phân tách giữa chủ thể và đối tượng được nhớ.
Bằng chứng: Dẫn thơ “Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”, “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói…” và phân tích ngữ nghĩa của từ ngữ đặc sắc.
Câu 5.
Tình cảm, thái độ của tác giả:
Tác giả thể hiện sự trân trọng, xúc động và ngưỡng mộ với vẻ đẹp nghệ thuật và chiều sâu cảm xúc trong bài thơ Tây Tiến, đặc biệt là nỗi nhớ chơi vơi được thể hiện tinh tế và độc đáo qua ngôn ngữ.