

Lê Thị Giang
Giới thiệu về bản thân



































câu 1: thể thơ tự do
câu 2: từ ngữ tiêu biểu thể hiện biển đảo và đất nước
“Biển mùa này sóng dữ phía Hoàng Sa”
- “bám biển”
- “Mẹ Tổ quốc”
- “máu ngư dân”
- “sóng”, “máu chan hòa”, “Tổ quốc”
câu 3: Biện pháp: So sánh → "Mẹ Tổ quốc vẫn luôn ở bên ta / Như máu ấm trong màu cờ nước Việt"
Tác dụng: So sánh “Mẹ Tổ quốc” với “máu ấm trong màu cờ” giúp:
- Nhấn mạnh sự gắn bó thiêng liêng, sâu sắc của Tổ quốc với mỗi con dân.
- Tạo hình ảnh xúc động, làm nổi bật tình yêu nước, lòng biết ơn và cảm xúc thiêng liêng của người dân với đất mẹ.
câu 4: Nhà thơ thể hiện niềm tự hào dân tộc, lòng biết ơn sâu sắc với những người đã hy sinh giữ nước,
đồng thời bày tỏ tình yêu, sự trân trọng và tinh thần quyết tâm bảo vệ biển đảo quê hương.
câu 5: Biển đảo là một phần máu thịt thiêng liêng của Tổ quốc, vì vậy mỗi người trẻ chúng ta cần có trách nhiệm trong việc giữ gìn và bảo vệ. Trước hết, cần tích cực tìm hiểu lịch sử, chủ quyền biển đảo, nâng cao nhận thức về vai trò của biển đảo đối với đất nước. Đồng thời, cần lên tiếng đấu tranh với những hành vi xâm phạm chủ quyền, chia sẻ thông tin đúng đắn và lan tỏa tinh thần yêu nước. Dù chỉ là học sinh, nhưng bằng tri thức và lòng yêu nước, ta hoàn toàn có thể góp phần bảo vệ Tổ quốc từ những điều nhỏ nhất.
câu 2: - Tôi ngỡ là tôi lúc ở nhà/Nhớ quê, đành vậy, nhìn mây trắng
- Tác dụng: Bộc lộ cảm xúc nhớ nhung, mong muốn được trở về quê hương
câu 1: Nhân vật trữ tình đang sống nơi đất khách quê người – cụ thể là thành phố Xan-đi-ê-gô (San Diego) ở Mỹ. Trong hoàn cảnh nhớ quê da diết, người ấy nhìn thấy cảnh vật lạ mà cứ ngỡ như đang ở quê hương mình.
câu 3: Cảm hứng hoài hương (nhớ quê), với nỗi niềm xa xứ, nỗi cô đơn, và một chút lạc lõng nơi đất khách.
câu 4:
- hổ 1: Nhân vật cảm nhận nắng, mây với sự ngỡ ngàng, tưởng chừng như đang ở quê, vẫn còn có chút ấm áp, gợi nhớ.
- Khổ 3: Dù vẫn là nắng hanh vàng, mây trắng, nhưng lúc này là sự chấp nhận mình là kẻ xa xứ, lữ thứ, bụi đường cũng chẳng phải bụi quê mình → cảm giác cô đơn, lạc lõng hơn nhiều.
➡Sự khác biệt nằm ở: từ hy vọng, tưởng như gần quê → nhận ra thật ra mình đang rất xa quê.
câu 5:
"Ngó xuống mũi giày thì lữ thứ
Bụi đường cũng bụi của người ta."
- Nó thấm thía nỗi cô đơn của người xa xứ, dù chỉ là bụi đường thôi cũng không phải bụi quê mình.
- “Mũi giày” – thứ luôn ở bên dưới chân mình, gợi hình ảnh lữ khách, lang thang, không nơi chốn.
- Tưởng nhỏ mà chạm tới tận đáy lòng người đọc luôn 🥲
"Đã đôi lần đến với Huế mộng mơ, tôi ôm ấp một tình yêu dịu ngọt, Vẻ đẹp Huế chẳng nơi nào có được..." Huế là nơi con người và thiên nhiên hòa quyện với nhau là một, nếu đã đến Huế chắc hẳn mỗi chúng ta sẽ cảm nhận được điều này. Và có ai về xứ Huế mộng mơ mà không một lần ngắm nhìn sông Hương xuôi dòng. Con sông đã làm nên nét đặc trưng của xứ Huế. Chính vì thế mà từ bao giờ nó đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho văn chương nói riêng và nghệ thuật nói chung. Một trong những tác phẩm nổi tiếng về sông Hương chính là tùy bút "Ai đã đặt tên cho dòng sông" của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Ngoài vẻ đẹp thơ mộng, dịu dàng mà nó mang trong mình thì đây còn là một dòng sông gắn với lịch sử đất nước và văn hóa xứ Huế nói riêng.
Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh năm 1937 tại Huế. Quê gốc ở làng Bích Khê, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, song gần như suốt cuộc đời, ông gắn bó với xứ Huế yêu thương. Chính vì ông là một con người dành nhiều tình cảm cho xứ Huế nên tâm hồn nhà văn thấm đẫm đặc trưng của văn hóa Huế. Năm 1960, ông tốt nghiệp ban Việt – Hán Trường Đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, tốt nghiệp khoa Triết – Văn Đại học Huế. Sau đó, ông về dạy tại trường Quốc học Huế. Năm 1966, Hoàng Phủ Ngọc Tường thoát li lên chiến khu, tham gia cuộc kháng chiến chống Mĩ bằng hoạt động văn nghệ, ông đã giữ các chức vụ: Tổng thư kí Hội Văn học nghệ thuật Trị Thiên – Huế. Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Bình Trị Thiên.
Tuỳ bút Người lái đò sông Đà nằm trong tập tuỳ bút sông Đà là kết quả của những chuyến đi thực tế Tây Bắc của Nguyễn Tuân trong và sau kháng chiến chống Pháp. Thành công của tác phẩm nằm trong việc khẳng định một phong cách nghệ thuật độc đáo, phát hiện những điểm quý báu trong tâm hồn con người vùng Tây Bắc. Song bên cạnh đó, tài năng và tâm hồn giàu rung động của Nguyễn Tuân cũng làm giàu thêm những giá trị tình cảm và thẫm mĩ cho tác phẩm bằng những trang văn tinh tế, tài hoa về vẻ đẹp thiên nhiên miền Tay Bắc vừa hùng vĩ lại vừa thơ mộng. Đoạn trích đã dựng lại được không khí thơ mộng trữ tình của không gian sông Đà nơi hạ lưu của sông: Tính chất thơ mộng, trữ tình được tạo nên từ không khí tĩnh lặng, êm đềm, từ sắc thái tươi tắn thanh khiết của đôi bờ, từ những hình ảnh tuyệt đẹp của thiên nhiên nơi dòng sông và bờ sông. Đoạn trích gợi cho người đọc cảm nhận không chỉ vẻ đẹp thơ mộng trữ tình trong diện mạo con sông mà còn cả vẻ lãng mạn và đa cảm của nó, con sông trong trang thơ Nguyễn Tuân như một sinh thể có linh hồn và tràn đầy xúc cảm - xuôi về quãng bằng lặng êm đềm lại nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc hoà mình với không gian đồng bằng sông lại cũng biết lắng nghe giọng nói êm êm của người xuôi. Đây là một trong những đoạn vần trữ tình vào bậc nhất của tuỳ bút “Người lái đò sông Đà’' nó thể hiện được một trong hai khía cạnh rất quan trọng của sở trường cảm nhận, phát hiện và mô tả nghệ thuật của ngòi bút Nguyễn Tuân để ở đoạn văn này, có thể coi Nguyễn Tuân là nhà văn của những phong cảnh thiên nhiên tuyệt mĩ.