Triệu Thị Hà Vy

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Triệu Thị Hà Vy
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

a. Môi trường nuôi cấy không liên tục là môi trường có thành phần và thể tích cố định, không được bổ sung chất dinh dưỡng mới và không loại bỏ chất thải trong suốt quá trình nuôi cấy. Vi sinh vật trong môi trường này sẽ trải qua các pha sinh trưởng khác nhau cho đến khi nguồn dinh dưỡng cạn kiệt hoặc chất thải tích tụ quá mức.

Môi trường nuôi cấy liên tục là môi trường được bổ sung liên tục chất dinh dưỡng mới và loại bỏ liên tục chất thải, giúp duy trì nồng độ chất dinh dưỡng và chất thải ở mức ổn định. Điều này cho phép vi sinh vật sinh trưởng liên tục ở pha cân bằng.

b. Sự sinh trưởng của quần thể vi khuẩn trong môi trường nuôi cấy không liên tục trải qua các pha sau:

  1. Pha tiềm phát (Lag phase): Vi khuẩn thích nghi với môi trường mới, tổng hợp enzyme cần thiết, chuẩn bị cho sự phân chia tế bào. Số lượng tế bào chưa tăng đáng kể.
  2. Pha lũy thừa (Log phase): Vi khuẩn sinh trưởng và phân chia tế bào với tốc độ tối đa, số lượng tế bào tăng theo cấp số nhân. Đây là pha sinh trưởng nhanh nhất.
  3. Pha cân bằng (Stationary phase): Tốc độ sinh trưởng bằng tốc độ chết của tế bào, số lượng tế bào ổn định. Nguồn dinh dưỡng cạn kiệt, chất thải tích tụ.
  4. Pha suy vong (Death phase): Tốc độ chết của tế bào vượt quá tốc độ sinh trưởng, số lượng tế bào giảm dần. Môi trường trở nên bất lợi cho sự sống của vi khuẩn.

Đậu nành là cây họ đậu có khả năng cố định nitơ trong không khí nhờ sự cộng sinh với vi khuẩn Rhizobium sống trong nốt sần rễ. Vi khuẩn này chuyển hóa nitơ khí quyển thành amoniac (NH3), một dạng nitơ dễ hấp thụ đối với cây trồng. Sau khi thu hoạch đậu nành, một lượng nitơ đáng kể được tích lũy trong đất dưới dạng chất hữu cơ từ tàn dư cây trồng và từ hoạt động của vi khuẩn cố định đạm. Việc trồng khoai trước đó đã sử dụng một phần lượng nitơ trong đất. Việc luân canh trồng đậu nành sau khoai giúp bổ sung và duy trì lượng nitơ trong đất, làm giàu dinh dưỡng cho đất và giảm sự phụ thuộc vào phân bón hóa học.

  1. Phơi héo rau giúp làm giảm hàm lượng nước trong rau, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình lên men lactic acid diễn ra hiệu quả hơn. Nước quá nhiều sẽ làm pha loãng môi trường, ức chế sự phát triển của vi khuẩn lactic acid có lợi.

  2. Thêm đường cung cấp nguồn năng lượng cho vi khuẩn lactic acid phát triển. Đường sẽ được lên men thành acid lactic, tạo ra môi trường chua, ức chế sự phát triển của vi khuẩn gây hại và bảo quản dưa được lâu hơn.

  3. Đổ nước ngập mặt rau tạo môi trường kị khí (thiếu oxy) cần thiết cho quá trình lên men lactic acid. Vi khuẩn lactic acid là vi sinh vật kị khí hoặc chịu khí, chúng hoạt động tốt hơn trong môi trường thiếu oxy.

  4. Dùng vật nặng nén chặt rau giúp rau luôn ngập trong nước, tạo môi trường kị khí đồng nhất và giúp rau nhanh chóng ngấm gia vị, đồng thời loại bỏ không khí dư thừa, ngăn ngừa sự phát triển của vi khuẩn gây hư hỏng

  1. Tìm số tế bào con tạo thành sau nguyên phân.

Vì mỗi tinh trùng chứa NST Y chỉ được tạo ra từ quá trình giảm phân của tế bào sinh dục đực, và mỗi tế bào sinh dục đực tạo ra 4 tinh trùng, nên số tế bào con tạo thành sau nguyên phân là 512/4 = 128 tế bào.

  1. Tìm số lần nguyên phân.

Số tế bào con tạo thành sau n lần nguyên phân là 2n. Vậy 2n = 128, suy ra n = 7. Tế bào sinh dục sơ khai đã nguyên phân 7 đợt.

  1. Tính số NST đơn môi trường cung cấp cho nguyên phân.

Tổng số NST đơn trong 128 tế bào con là 128 x 2n. Số NST đơn môi trường cung cấp cho nguyên phân là (128 -1) x 2n = 127 x 2n = 4080.

  1. Xác định bộ NST 2n của loài.

Từ phương trình 127 x 2n = 4080, ta tính được 2n = 4080 / 127 = 32.

Bản vẽ chi tiết và bản vẽ lắp là hai loại bản vẽ kỹ thuật cơ khí quan trọng, phục vụ cho các mục đích khác nhau trong quá trình thiết kế và chế tạo. Bản vẽ chi tiết mô tả đầy đủ hình dạng, kích thước, vật liệu và các yêu cầu kỹ thuật của từng chi tiết riêng lẻ của một sản phẩm. Trong khi đó, bản vẽ lắp thể hiện mối quan hệ lắp ghép giữa các chi tiết đó với nhau để tạo thành sản phẩm hoàn chỉnh, cho thấy vị trí tương đối và cách thức hoạt động của chúng. Nói cách khác, bản vẽ chi tiết tập trung vào từng bộ phận, còn bản vẽ lắp tập trung vào tổng thể sản phẩm.