

Lê Kim Anh
Giới thiệu về bản thân



































a.
b.Vì mỗi tế bào sinh dục đực giảm phân tạo ra 4 giao tử, còn mỗi tế bào sinh dục cái chỉ tạo ra 1 giao tử, và số giao tử cần thiết để tạo ra 1024 hợp tử là 10240, thì số tế bào sinh dục cái cần thiết sẽ là 10240, trong khi số tế bào sinh dục đực cần thiết là 10240/4 = 2560. Số tế bào con tạo ra từ nguyên phân là 10 x 28 = 2560, khớp với số tế bào sinh dục đực cần thiết.
Dưa, cà muối được bảo quản lâu nhờ quá trình muối làm thay đổi môi trường sống của vi sinh vật gây thối rữa. Nồng độ muối cao trong dung dịch muối tạo ra áp suất thẩm thấu cao, làm cho nước trong tế bào vi sinh vật bị rút ra ngoài, dẫn đến vi sinh vật bị mất nước và chết hoặc ngừng hoạt động. Ngoài ra, môi trường có độ pH thấp (môi trường axit) do quá trình lên men cũng ức chế sự phát triển của nhiều loại vi sinh vật.
- Tính số lần phân chia: 3 ngày = 72 giờ = 72 x 60 phút = 4320 phút. Số lần phân chia là 4320 phút / 30 phút/lần = 144 lần.
- Tính số tế bào sau khi phân chia: Số tế bào = 30 tế bào x 2^144. Đây là một con số cực kì lớn.
- Kì đầu: Nhiễm sắc thể bắt đầu co xoắn, màng nhân dần biến mất, thoi phân bào bắt đầu hình thành.
- Kì giữa: Nhiễm sắc thể co xoắn cực đại, tập trung thành 1 hàng trên mặt phẳng xích đạo của tế bào, thoi phân bào được hình thành hoàn chỉnh.
- Kì sau: Nhiễm sắc thể kép tách ở tâm động thành 2 nhiễm sắc thể đơn và phân li về 2 cực của tế bào nhờ sự co rút của thoi phân bào.
- Kì cuối: Nhiễm sắc thể dãn xoắn, màng nhân xuất hiện trở lại, thoi phân bào biến mất, tế bào chất phân chia tạo thành 2 tế bào con.
- Nhiễm sắc thể co xoắn và dãn xoắn, thoi phân bào xuất hiện và biến mất, màng nhân biến mất và xuất hiện lại trong các kì của nguyên phân.
Bản vẽ chi tiết thể hiện hình dạng, kích thước và các yêu cầu kỹ thuật của từng chi tiết riêng lẻ. Bản vẽ lắp thể hiện mối quan hệ lắp ghép giữa các chi tiết, vị trí tương đối của chúng trong sản phẩm hoàn chỉnh.
Công nghệ tế bào động vật là ngành khoa học ứng dụng các kỹ thuật thao tác trên tế bào và mô động vật để tạo ra các sản phẩm có giá trị kinh tế và y học. Nguyên lý của công nghệ tế bào động vật dựa trên khả năng toàn năng của tế bào, tức là khả năng của một tế bào biệt hóa thành nhiều loại tế bào khác nhau. Một số thành tựu của công nghệ tế bào động vật bao gồm: nhân bản vô tính động vật, nuôi cấy mô và tế bào động vật để sản xuất vắc xin, thuốc, và các sản phẩm sinh học khác, kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm (IVF)
Phơi héo rau giúp làm giảm hàm lượng nước trong rau, tạo điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn lactic phát triển. Thêm đường cung cấp nguồn năng lượng cho vi khuẩn lactic hoạt động. Đổ nước ngập mặt rau và dùng vật nặng nén chặt tạo môi trường kị khí, ức chế sự phát triển của vi khuẩn gây thối rữa và tạo điều kiện tối ưu cho quá trình lên men lactic diễn ra hiệu quả, tạo ra dưa chua ngon và giòn.
a.Vì các tế bào con sinh ra đều giảm phân tạo 512 tinh trùng chứa NST Y, mà mỗi tế bào con tạo ra 4 tinh trùng (2 tinh trùng chứa NST X và 2 tinh trùng chứa NST Y), nên số tế bào con được tạo ra là 512 / 2 = 256 tế bào
Số tế bào con được tạo ra sau nguyên phân là 2k, với k là số lần nguyên phân. Vậy 2k = 256, suy ra k = 8.
Đáp án: Tế bào sinh dục sơ khai nguyên phân 8 đợt.
b.Môi trường nội bào cung cấp 4080 NST đơn mới cho nguyên phân.Tổng số NST đơn trong 256 tế bào con là 256 x 2n. Số NST đơn mới được tạo ra trong nguyên phân bằng tổng số NST trong tế bào con trừ đi số NST của tế bào mẹ ban đầu, tức là 256 x 2n - 2n = 255 x 2n.Ta có phương trình: 255 x 2n = 4080. Giải phương trình, ta được 2n = 16.
Đậu nành là cây họ đậu có khả năng cố định nitơ trong không khí nhờ sự cộng sinh với vi khuẩn Rhizobium sống trong nốt sần rễ. Vi khuẩn này chuyển hóa nitơ khí quyển thành dạng nitrat (NO3-) hoặc amoni (NH4+), cung cấp nguồn dinh dưỡng nitơ cho cây đậu nành và làm giàu nitơ trong đất. Sau khi thu hoạch đậu nành, một phần nitơ này sẽ còn lại trong đất, bổ sung và duy trì lượng nitơ cho vụ trồng trọt tiếp theo, ví dụ như vụ khoai. Vì vậy, việc luân canh trồng đậu nành sau khoai giúp bổ sung và duy trì lượng nitơ trong đất
Đậu nành là cây họ đậu có khả năng cố định nitơ trong không khí nhờ sự cộng sinh với vi khuẩn Rhizobium sống trong nốt sần rễ. Vi khuẩn này chuyển hóa nitơ khí quyển thành dạng nitrat (NO3-) hoặc amoni (NH4+), cung cấp nguồn dinh dưỡng nitơ cho cây đậu nành và làm giàu nitơ trong đất. Sau khi thu hoạch đậu nành, một phần nitơ này sẽ còn lại trong đất, bổ sung và duy trì lượng nitơ cho vụ trồng trọt tiếp theo, ví dụ như vụ khoai. Vì vậy, việc luân canh trồng đậu nành sau khoai giúp bổ sung và duy trì lượng nitơ trong đất