

Đỗ Trần Trung Nghĩa
Giới thiệu về bản thân



































Câu 1. Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ):
Mùa thu Hà Nội trong đoạn thơ của Hoàng Cát hiện lên với vẻ đẹp vừa dịu dàng, vừa sâu lắng, gợi cảm xúc bâng khuâng cho người thưởng thức. Những hình ảnh như “gió heo may”, “lá vàng khô lùa trên phố” đã vẽ nên bức tranh thu quen thuộc của Hà Nội: se lạnh, xào xạc, đầy chất thơ. Thiên nhiên không chỉ mang vẻ đẹp vật chất mà còn hòa quyện với tâm hồn con người: “Ta lặng lẽ một mình. Chiều nhạt nắng. / Nhớ người xa”. Cảnh thu ấy gợi lên nỗi cô đơn, hoài niệm và khắc khoải trong lòng người. Đặc biệt, hình ảnh “hàng sấu”, “quả sót”, “chùm nắng hạ” khiến mùa thu không chỉ là sự chuyển mình của đất trời mà còn đậm đà dấu ấn riêng của Hà Nội. Mùi hương, màu sắc, âm thanh hòa quyện, làm nên một mùa thu rất đặc trưng, rất Việt Nam. Qua đó, tác giả không chỉ ca ngợi vẻ đẹp mùa thu mà còn gửi gắm nỗi nhớ nhung, tình yêu tha thiết với con người và mảnh đất thủ đô.
Câu 2.
Sự phát triển của trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence - AI) đang tạo ra một cuộc cách mạng trong xã hội và có ảnh hưởng lớn đến nhiều khía cạnh của cuộc sống con người. Trong bài viết này, chúng ta sẽ xem xét những khía cạnh tích cực và thách thức mà sự phát triển của AI đang mang lại cho xã hội.
Một trong những điểm đáng chú ý nhất của sự phát triển của AI là khả năng nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh. Nhờ vào khả năng tự động hóa quy trình sản xuất và quản lý dữ liệu mạnh mẽ, các doanh nghiệp có thể tiết kiệm thời gian và nguồn lực, tăng cường năng suất và cải thiện lợi nhuận. Điều này mang lại lợi ích cho cả doanh nghiệp và người lao động bằng cách tạo ra cơ hội cho sự phát triển nghề nghiệp và sáng tạo mới.
Tuy nhiên, sự phát triển của AI cũng đặt ra một số thách thức đáng quan ngại. Một trong những vấn đề quan trọng là sự thay thế của công việc người lao động bởi máy móc thông minh. Việc này có thể gây ra tình trạng thất nghiệp và tạo ra khoảng cách gia tăng giữa những người có kỹ năng phù hợp với công nghệ và những người không có. Chính vì vậy, chúng ta cần xem xét cách để đảm bảo rằng sự phát triển của AI đi đôi với việc đào tạo và phát triển kỹ năng cho nhân viên để họ có khả năng thích nghi và cạnh tranh trong môi trường làm việc mới.
Sự phát triển của trí tuệ nhân tạo cũng đặt ra câu hỏi về quyền riêng tư và an ninh thông tin. Với việc thu thập và phân tích dữ liệu ngày càng mạnh mẽ, có nguy cơ rò rỉ thông tin cá nhân và vi phạm quyền riêng tư của cá nhân. Do đó, việc xây dựng chính sách bảo mật dữ liệu mạnh mẽ và quản lý thông tin một cách cẩn thận trở nên cực kỳ quan trọng để bảo vệ quyền lợi của người dùng.
Tóm lại, sự phát triển của trí tuệ nhân tạo đem lại cơ hội lớn và thách thức đáng kể cho xã hội. Để tận dụng được lợi ích của AI, chúng ta cần phải đối mặt với những thách thức này bằng cách đảm bảo rằng công nghệ này được sử dụng một cách thông minh và đúng đắn, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích của tất cả thành viên trong xã hội.
Câu 1. Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ):
Mùa thu Hà Nội trong đoạn thơ của Hoàng Cát hiện lên với vẻ đẹp vừa dịu dàng, vừa sâu lắng, gợi cảm xúc bâng khuâng cho người thưởng thức. Những hình ảnh như “gió heo may”, “lá vàng khô lùa trên phố” đã vẽ nên bức tranh thu quen thuộc của Hà Nội: se lạnh, xào xạc, đầy chất thơ. Thiên nhiên không chỉ mang vẻ đẹp vật chất mà còn hòa quyện với tâm hồn con người: “Ta lặng lẽ một mình. Chiều nhạt nắng. / Nhớ người xa”. Cảnh thu ấy gợi lên nỗi cô đơn, hoài niệm và khắc khoải trong lòng người. Đặc biệt, hình ảnh “hàng sấu”, “quả sót”, “chùm nắng hạ” khiến mùa thu không chỉ là sự chuyển mình của đất trời mà còn đậm đà dấu ấn riêng của Hà Nội. Mùi hương, màu sắc, âm thanh hòa quyện, làm nên một mùa thu rất đặc trưng, rất Việt Nam. Qua đó, tác giả không chỉ ca ngợi vẻ đẹp mùa thu mà còn gửi gắm nỗi nhớ nhung, tình yêu tha thiết với con người và mảnh đất thủ đô.
Câu 2.
Sự phát triển của trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence - AI) đang tạo ra một cuộc cách mạng trong xã hội và có ảnh hưởng lớn đến nhiều khía cạnh của cuộc sống con người. Trong bài viết này, chúng ta sẽ xem xét những khía cạnh tích cực và thách thức mà sự phát triển của AI đang mang lại cho xã hội.
Một trong những điểm đáng chú ý nhất của sự phát triển của AI là khả năng nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh. Nhờ vào khả năng tự động hóa quy trình sản xuất và quản lý dữ liệu mạnh mẽ, các doanh nghiệp có thể tiết kiệm thời gian và nguồn lực, tăng cường năng suất và cải thiện lợi nhuận. Điều này mang lại lợi ích cho cả doanh nghiệp và người lao động bằng cách tạo ra cơ hội cho sự phát triển nghề nghiệp và sáng tạo mới.
Tuy nhiên, sự phát triển của AI cũng đặt ra một số thách thức đáng quan ngại. Một trong những vấn đề quan trọng là sự thay thế của công việc người lao động bởi máy móc thông minh. Việc này có thể gây ra tình trạng thất nghiệp và tạo ra khoảng cách gia tăng giữa những người có kỹ năng phù hợp với công nghệ và những người không có. Chính vì vậy, chúng ta cần xem xét cách để đảm bảo rằng sự phát triển của AI đi đôi với việc đào tạo và phát triển kỹ năng cho nhân viên để họ có khả năng thích nghi và cạnh tranh trong môi trường làm việc mới.
Sự phát triển của trí tuệ nhân tạo cũng đặt ra câu hỏi về quyền riêng tư và an ninh thông tin. Với việc thu thập và phân tích dữ liệu ngày càng mạnh mẽ, có nguy cơ rò rỉ thông tin cá nhân và vi phạm quyền riêng tư của cá nhân. Do đó, việc xây dựng chính sách bảo mật dữ liệu mạnh mẽ và quản lý thông tin một cách cẩn thận trở nên cực kỳ quan trọng để bảo vệ quyền lợi của người dùng.
Tóm lại, sự phát triển của trí tuệ nhân tạo đem lại cơ hội lớn và thách thức đáng kể cho xã hội. Để tận dụng được lợi ích của AI, chúng ta cần phải đối mặt với những thách thức này bằng cách đảm bảo rằng công nghệ này được sử dụng một cách thông minh và đúng đắn, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích của tất cả thành viên trong xã hội.
Câu 1.
Tính sáng tạo đóng vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống của thế hệ trẻ hiện nay. Trong thời đại công nghệ phát triển nhanh chóng và thế giới liên tục đổi thay, người trẻ không chỉ cần kiến thức mà còn cần khả năng tư duy linh hoạt, đổi mới và sáng tạo để thích nghi và phát triển. Sáng tạo giúp thế hệ trẻ chủ động tìm ra hướng đi mới, giải quyết vấn đề theo cách riêng, góp phần nâng cao hiệu quả trong học tập, lao động và khởi nghiệp. Không chỉ vậy, sự sáng tạo còn là nền tảng để người trẻ phát triển bản thân toàn diện, khẳng định cá tính và tạo dấu ấn riêng trong xã hội hiện đại. Trong môi trường cạnh tranh khốc liệt như ngày nay, ai biết đổi mới, dám nghĩ dám làm sẽ có nhiều cơ hội thành công hơn. Vì vậy, phát huy tính sáng tạo chính là chìa khóa để thế hệ trẻ bước vào tương lai tự tin, bản lĩnh và đầy triển vọng.
Câu 2.
Chiến tranh nổ ra! Bao gia đình phải chia ly, bấy nhiêu bóng dáng hào kiệt đã ngã xuống, máu hòa với nỗi hận chôn sâu dưới làn mưa bom đạn. Vậy mà, mặc cho chiến tranh có tàn phá nặng nề đến mức nào, thì hình ảnh Phi và ông Sáu Đèo trong tác phẩm “Biển người mênh mông” của Nguyễn Ngọc Tư vẫn đậm sâu, đẹp đẽ một cách lạ thường. Đặc biệt, 2 nhân vật này là đại diện cho con người Nam Bộ đã để lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc khó tả, để rồi người ta thêm vững lòng tin vào một thứ tình cảm thiêng liêng, bất diệt.
Chuyện kể về ông Sáu Đèo được về quê sau chín năm xa cách dài đằng đẵng. Ông là một người chiến sĩ nông dân vùng Nam Bộ. Với lòng yêu nước mãnh liệt cùng sự căm ghét quân giặc sâu sắc, ông đã tham gia vào cuộc kháng chiến. Ngày ông đi, ông đã cố gắng gạt đi sự quyến luyến, tình yêu thương gia đình. Để lại sau lưng là ánh mắt non nớt cùng người vợ tảo tần để đi theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc. Quyết hy sinh đến tận hơi thở cuối cùng để bảo vệ từng mảnh đất, ngọn cỏ của dân tộc. Có thể nói, ông chính là hình ảnh đại diện cho lòng yêu nước của người nông dân Nam Bộ chân chất, mộc mạc.
Phi sinh ra đã không có ba, năm tuổi rưỡi, má Phi cũng theo chồng ra chợ sống. Phi ở với bà ngoại, chiu chít quanh quẩn bên chân bà như gà mẹ gà con. Thấy Phi suốt ngày thui thủi một mình, ngoại biểu đi hàng xóm chơi, Phi lắc đầu, "Đi đâu ai người ta cũng bảo giống ông Hiểu nào, trưởng đồn Vàm Mấm nào á. Con với ổng nước lã, người dưng mà, ngoại?" Ngoại không nói gì, lặng lẽ ngồi đương thúng, dường như trong mình có chỗ nào đó đau lắm, nhói lắm.
Khi Phi lên mười, mười lăm tuổi đã biết rất nhiều chuyện. Thì ra, đã không còn cách nào khác, má mới bỏ Phi lại. Sau giải phóng, ba Phi về, xa nhau biền biệt chín năm trời, về nhà thấy vợ mình có đứa con trai chưa đầy sáu tuổi, ông chết lặng. Đây là kết quả cưỡng bức của tên đồn trưởng Rạch Vàm Nấm với mẹ của Phi. Ngoại Phi bảo, "Tụi bây còn thương thì mai mốt ra tỉnh nhận công tác, rủ nhau mà đi, để thằng Phi lại cho má". Má cũng hay về thăm Phi, thường là về một mình. Tất bật, vội vã, không làm gì cũng vội vã. Lần nào cũng hối hả kéo Phi vào lòng hỏi còn tiền xài không, lúc rày học hành thế nào, có tiếp ngoại vót nan không, sao mà ốm nhom vậy? Rồi từ từ má chỉ hỏi anh chuyện tiền xài thôi.
Hết cấp hai, Phi lên thị xã mướn nhà trọ học, một năm mấy lần lại nhờ má đi họp phụ huynh. Ba Phi thì hội họp, công tác liên miên, Phi ít gặp. Ông thay đổi nhiều, diện mạo, tác phong nhưng gặp Phi, cái nhìn vẫn như xưa, lạnh lẽo, chua chát, đắng caỵ, dứt khoát không nhìn con như vậy. Ông hay chê Phi với má, "Cái thằng, lừ đừ lừ đừ không biết giống ai" . Hết lớp mười, Phi vừa học vừa tìm việc làm thêm. Má anh rầy, "Bộ má nuôi không nổi sao?" Phi cười, "Má còn cho mấy đứa em, phải lo cho tụi nó học cao hơn nữa. Tự mình con sống cũng được, má à. Rồi Phi thôi học đi theo đoàn hát, má anh giận tím ruột bầm gan, "Ai đời ba mầy làm tới chức phó chủ tịch, không lẽ không lo cho mầy một chỗ làm tử tế, sao lại vác cây đờn đi hò hát lông bông. Làm vậy khác nào làm ổng mất mặt". Chỉ ngoại Phi là không rầy, ngoại anh hỏi, "Bộ làm nghề đó vui lắm hả con? Thoải mái chớ gì? Phải rồi, hồi xưa má con đẻ rớt con trên bờ mẫu, mở mắt ra đã thấy mênh mông trời đất rồi, bây giờ bị bó buộc con đâu có chịu". Phi chỉ cười cười mà không nói. Nhờ vậy, mà người ở xóm lao động nghèo nầy biết thằng Phi "nghệ sỹ" vẫn còn ở đây, trong căn nhà cửa trước lúc nào cũng khép im ỉm. Ở trong cái tổ bê bối của mình, Phi ngủ vùi đến trưa hôm sau. Ngoại biểu anh cưới vợ hoài, nhưng Phi nghĩ mãi, có ai chịu đựng được anh chồng lang thang say xỉn như mình, hồi còn là một hòn máu thoi thót anh đã làm khổ bao nhiêu người rồi, bây giờ lấy vợ không phải lại làm khổ thêm một người nữa sao?
Rồi ngoại Phi nằm xuống dưới ba tấc đất, đôi bông tai bằng cẩm thạch ngoại để dành cho cháu dâu vẫn còn nằm im trong hộc tủ thờ. Còn một mình, anh đâm ra lôi thôi, ba mươi ba tuổi rồi mà sống lôi thôi, nghèo hoài. Ngó cảnh nhà, Phi tự hỏi, mình sống bê bối từ hồi nào vậy cà. Từ hồi nào thì phong trần, bụi bặm, khắc khổ, ăn bận lôi thôi, quần Jean bạc lổ chổ, lai rách te tua, áo phông dài quá mông, râu ria rậm rạp, móng tay dài, tóc dài. Từ hồi nào muốn soi kiếng phải lấy tay vẹt mớ râu tóc ra như người ta vẹt bụi ô rô. Không biết, có ai la rầy, có ai để ý đâu mà biết. Má anh lâu lâu lại hỏi anh đủ tiền xài không, bà có nhìn anh nhưng không quan tâm lắm chuyện ăn mặc, tóc tai. Ngoài ngoại ra, chỉ có ông Sáu Đèo nhắc anh chuyện đó. Cuộc đời của ông Sáu Đèo sau khi người vợ bỏ đi, không con cái, chỉ làm bạn với con chim bìm bịp, lang thang bán vé số nay đây mai đó ở tuổi xế chiều, cô đơn. Nỗi nhớ và tiếng kêu thắt lòng của con chim bìm bịp nhắc về ông Sáu Đèo đang tiếp tục lưu lạc trên chặng đường nào. Nỗi cô đơn của Phi giữa biển người mênh mông.
Trời trở chướng, ông Sáu than đau nhức mình. Phi qua nhà cạo gió cho ông. Lần theo những chiếc xương gồ ra trên thân mình nhỏ thó, ốm teo, Phi buột miệng "Bác Sáu ốm quá". Ông già Sáu cười. Ông biểu, "Sống một mình thì buồn lắm, chú em nên nuôi con gì đó, con... vợ thì tốt nhất, nếu chưa tính chuyện đó được thì nuôi chó, mèo, chim chóc. Đừng nuôi sáo, nuôi sáo kết cục rồi cũng chia ly hà, nó hay sổ lồng, chết yểu. Kiếm thứ dân dã mà nuôi, để nhớ quê, nhớ gốc rễ mình, để đi đâu cũng muốn về nhà. Cuộc sống nghèo vậy mà vui lắm. Phi hỏi, "Vậy bác Sáu gái đâu rồi ?" Ông già rên khẽ, gương mặt ràn rụa nước mắt, Phi giật mình, hỏi quýnh quáng. Ông già Sáu mếu máo chỉ về phía tim, ông đã tìm người vợ gần bốn mươi năm, dời nhà cả thảy ba mươi ba bận, bỏ cả sông nước vốn gắn bó như máu thịt, lên bờ tìm kiếm để nói lời xin lỗi với vợ; cử chỉ “lấy tay quệt nước mắt” và câu hỏi day dứt trong ông: “Cái con bìm bịp quỷ nầy nó cũng bỏ qua mấy lần nhưng ngủ một đêm trên đọt dừa nó lại quay về. Sao cổ không quay lại?”,ông bảo đã ở đây một năm hai tháng mười chín ngày rồi, ngõ nào cũng đi hẻm nào cũng tới mà người thương đâu chưa thấy, những hoài niệm về niềm hạnh phúc với người vợ, “cuộc sống nghèo vậy mà vui lám”, buồn “tìm hoài không gặp” đi liền với nỗi lo “sợ mắt mình dở rồi nên nhìn không ra cổ”, “tới chết không biết có gặp được không”. “Từ đấy, ông già Sáu Đèo chưa một lần trở lại”. Ông vẫn đang mải miết đi hết những đường ngang ngõ dọc để tìm người thương, hay ông chân đã mỏi, gối đã chồn, đã dừng lại ở đâu đó trên hành trình cuộc đời mà vẫn chưa thôi khắc khoải. Trên hành trình tìm kiếm khát khao hạnh phúc đó, con người Nam Bộ trong truyện Biển người mênh mông cho chúng ta thấy tình yêu và sự gắn bó sâu quê hương xứ sở, tình cảm thuỷ chung sâu sắc, tấm lòng yêu thương, vị tha.
Nguyễn Ngọc Tư đã khắc họa nhân vật con người Nam Bộ trong trang văn với tình huống truyện tâm trạng, cốt truyện đơn giản, điểm nhìn di chuyển vào các nhân vật; ngôn ngữ đậm chất Nam Bộ, giàu chất thơ cùng với giọng điệu buồn thương, ngậm ngùi để lại trong lòng người đọc nhìu cảm xúc khó tả. Người đọc cảm nhận về những mảnh đời bé nhỏ, bất hạnh, trôi nổi, lưu lạc, những khát khao kiếm tìm hạnh phúc âm thầm mà mãnh liệt. Hành trình kiếm tìm tình thân, hạnh phúc ấy cũng là hành trình tìm kiếm sự thanh thản trong tâm hồn, hành trình của trái tim. Truyện khiến cho mỗi người đọc không nguôi về “nỗi người” trong trang văn của tác giả.
Truyện khơi gợi sự đồng cảm của người đọc, cho độc giả cảm nhận được những giá trị quý giá của tình thân, tình người, của hạnh phúc. Truyện cũng cảnh báo về những hời hợt, thờ ơ của mỗi người có thể đang góp phần làm nên cái “Biển người mênh mông” trong cuộc sống. Qua đó, tác giả đã để lại những ấn tượng sâu sắc về là một người chiến sĩ giàu trách nhiệm, kỷ luật và nặng lòng với quê hương, đất nước. Và rồi, đến cả khi đã gấp lại trang sách cũ, người ta vẫn canh cánh mãi những nỗi niềm rất lạ, rất riêng.
Câu 1.
Tính sáng tạo đóng vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống của thế hệ trẻ hiện nay. Trong thời đại công nghệ phát triển nhanh chóng và thế giới liên tục đổi thay, người trẻ không chỉ cần kiến thức mà còn cần khả năng tư duy linh hoạt, đổi mới và sáng tạo để thích nghi và phát triển. Sáng tạo giúp thế hệ trẻ chủ động tìm ra hướng đi mới, giải quyết vấn đề theo cách riêng, góp phần nâng cao hiệu quả trong học tập, lao động và khởi nghiệp. Không chỉ vậy, sự sáng tạo còn là nền tảng để người trẻ phát triển bản thân toàn diện, khẳng định cá tính và tạo dấu ấn riêng trong xã hội hiện đại. Trong môi trường cạnh tranh khốc liệt như ngày nay, ai biết đổi mới, dám nghĩ dám làm sẽ có nhiều cơ hội thành công hơn. Vì vậy, phát huy tính sáng tạo chính là chìa khóa để thế hệ trẻ bước vào tương lai tự tin, bản lĩnh và đầy triển vọng.
Câu 2.
Chiến tranh nổ ra! Bao gia đình phải chia ly, bấy nhiêu bóng dáng hào kiệt đã ngã xuống, máu hòa với nỗi hận chôn sâu dưới làn mưa bom đạn. Vậy mà, mặc cho chiến tranh có tàn phá nặng nề đến mức nào, thì hình ảnh Phi và ông Sáu Đèo trong tác phẩm “Biển người mênh mông” của Nguyễn Ngọc Tư vẫn đậm sâu, đẹp đẽ một cách lạ thường. Đặc biệt, 2 nhân vật này là đại diện cho con người Nam Bộ đã để lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc khó tả, để rồi người ta thêm vững lòng tin vào một thứ tình cảm thiêng liêng, bất diệt.
Chuyện kể về ông Sáu Đèo được về quê sau chín năm xa cách dài đằng đẵng. Ông là một người chiến sĩ nông dân vùng Nam Bộ. Với lòng yêu nước mãnh liệt cùng sự căm ghét quân giặc sâu sắc, ông đã tham gia vào cuộc kháng chiến. Ngày ông đi, ông đã cố gắng gạt đi sự quyến luyến, tình yêu thương gia đình. Để lại sau lưng là ánh mắt non nớt cùng người vợ tảo tần để đi theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc. Quyết hy sinh đến tận hơi thở cuối cùng để bảo vệ từng mảnh đất, ngọn cỏ của dân tộc. Có thể nói, ông chính là hình ảnh đại diện cho lòng yêu nước của người nông dân Nam Bộ chân chất, mộc mạc.
Phi sinh ra đã không có ba, năm tuổi rưỡi, má Phi cũng theo chồng ra chợ sống. Phi ở với bà ngoại, chiu chít quanh quẩn bên chân bà như gà mẹ gà con. Thấy Phi suốt ngày thui thủi một mình, ngoại biểu đi hàng xóm chơi, Phi lắc đầu, "Đi đâu ai người ta cũng bảo giống ông Hiểu nào, trưởng đồn Vàm Mấm nào á. Con với ổng nước lã, người dưng mà, ngoại?" Ngoại không nói gì, lặng lẽ ngồi đương thúng, dường như trong mình có chỗ nào đó đau lắm, nhói lắm.
Khi Phi lên mười, mười lăm tuổi đã biết rất nhiều chuyện. Thì ra, đã không còn cách nào khác, má mới bỏ Phi lại. Sau giải phóng, ba Phi về, xa nhau biền biệt chín năm trời, về nhà thấy vợ mình có đứa con trai chưa đầy sáu tuổi, ông chết lặng. Đây là kết quả cưỡng bức của tên đồn trưởng Rạch Vàm Nấm với mẹ của Phi. Ngoại Phi bảo, "Tụi bây còn thương thì mai mốt ra tỉnh nhận công tác, rủ nhau mà đi, để thằng Phi lại cho má". Má cũng hay về thăm Phi, thường là về một mình. Tất bật, vội vã, không làm gì cũng vội vã. Lần nào cũng hối hả kéo Phi vào lòng hỏi còn tiền xài không, lúc rày học hành thế nào, có tiếp ngoại vót nan không, sao mà ốm nhom vậy? Rồi từ từ má chỉ hỏi anh chuyện tiền xài thôi.
Hết cấp hai, Phi lên thị xã mướn nhà trọ học, một năm mấy lần lại nhờ má đi họp phụ huynh. Ba Phi thì hội họp, công tác liên miên, Phi ít gặp. Ông thay đổi nhiều, diện mạo, tác phong nhưng gặp Phi, cái nhìn vẫn như xưa, lạnh lẽo, chua chát, đắng caỵ, dứt khoát không nhìn con như vậy. Ông hay chê Phi với má, "Cái thằng, lừ đừ lừ đừ không biết giống ai" . Hết lớp mười, Phi vừa học vừa tìm việc làm thêm. Má anh rầy, "Bộ má nuôi không nổi sao?" Phi cười, "Má còn cho mấy đứa em, phải lo cho tụi nó học cao hơn nữa. Tự mình con sống cũng được, má à. Rồi Phi thôi học đi theo đoàn hát, má anh giận tím ruột bầm gan, "Ai đời ba mầy làm tới chức phó chủ tịch, không lẽ không lo cho mầy một chỗ làm tử tế, sao lại vác cây đờn đi hò hát lông bông. Làm vậy khác nào làm ổng mất mặt". Chỉ ngoại Phi là không rầy, ngoại anh hỏi, "Bộ làm nghề đó vui lắm hả con? Thoải mái chớ gì? Phải rồi, hồi xưa má con đẻ rớt con trên bờ mẫu, mở mắt ra đã thấy mênh mông trời đất rồi, bây giờ bị bó buộc con đâu có chịu". Phi chỉ cười cười mà không nói. Nhờ vậy, mà người ở xóm lao động nghèo nầy biết thằng Phi "nghệ sỹ" vẫn còn ở đây, trong căn nhà cửa trước lúc nào cũng khép im ỉm. Ở trong cái tổ bê bối của mình, Phi ngủ vùi đến trưa hôm sau. Ngoại biểu anh cưới vợ hoài, nhưng Phi nghĩ mãi, có ai chịu đựng được anh chồng lang thang say xỉn như mình, hồi còn là một hòn máu thoi thót anh đã làm khổ bao nhiêu người rồi, bây giờ lấy vợ không phải lại làm khổ thêm một người nữa sao?
Rồi ngoại Phi nằm xuống dưới ba tấc đất, đôi bông tai bằng cẩm thạch ngoại để dành cho cháu dâu vẫn còn nằm im trong hộc tủ thờ. Còn một mình, anh đâm ra lôi thôi, ba mươi ba tuổi rồi mà sống lôi thôi, nghèo hoài. Ngó cảnh nhà, Phi tự hỏi, mình sống bê bối từ hồi nào vậy cà. Từ hồi nào thì phong trần, bụi bặm, khắc khổ, ăn bận lôi thôi, quần Jean bạc lổ chổ, lai rách te tua, áo phông dài quá mông, râu ria rậm rạp, móng tay dài, tóc dài. Từ hồi nào muốn soi kiếng phải lấy tay vẹt mớ râu tóc ra như người ta vẹt bụi ô rô. Không biết, có ai la rầy, có ai để ý đâu mà biết. Má anh lâu lâu lại hỏi anh đủ tiền xài không, bà có nhìn anh nhưng không quan tâm lắm chuyện ăn mặc, tóc tai. Ngoài ngoại ra, chỉ có ông Sáu Đèo nhắc anh chuyện đó. Cuộc đời của ông Sáu Đèo sau khi người vợ bỏ đi, không con cái, chỉ làm bạn với con chim bìm bịp, lang thang bán vé số nay đây mai đó ở tuổi xế chiều, cô đơn. Nỗi nhớ và tiếng kêu thắt lòng của con chim bìm bịp nhắc về ông Sáu Đèo đang tiếp tục lưu lạc trên chặng đường nào. Nỗi cô đơn của Phi giữa biển người mênh mông.
Trời trở chướng, ông Sáu than đau nhức mình. Phi qua nhà cạo gió cho ông. Lần theo những chiếc xương gồ ra trên thân mình nhỏ thó, ốm teo, Phi buột miệng "Bác Sáu ốm quá". Ông già Sáu cười. Ông biểu, "Sống một mình thì buồn lắm, chú em nên nuôi con gì đó, con... vợ thì tốt nhất, nếu chưa tính chuyện đó được thì nuôi chó, mèo, chim chóc. Đừng nuôi sáo, nuôi sáo kết cục rồi cũng chia ly hà, nó hay sổ lồng, chết yểu. Kiếm thứ dân dã mà nuôi, để nhớ quê, nhớ gốc rễ mình, để đi đâu cũng muốn về nhà. Cuộc sống nghèo vậy mà vui lắm. Phi hỏi, "Vậy bác Sáu gái đâu rồi ?" Ông già rên khẽ, gương mặt ràn rụa nước mắt, Phi giật mình, hỏi quýnh quáng. Ông già Sáu mếu máo chỉ về phía tim, ông đã tìm người vợ gần bốn mươi năm, dời nhà cả thảy ba mươi ba bận, bỏ cả sông nước vốn gắn bó như máu thịt, lên bờ tìm kiếm để nói lời xin lỗi với vợ; cử chỉ “lấy tay quệt nước mắt” và câu hỏi day dứt trong ông: “Cái con bìm bịp quỷ nầy nó cũng bỏ qua mấy lần nhưng ngủ một đêm trên đọt dừa nó lại quay về. Sao cổ không quay lại?”,ông bảo đã ở đây một năm hai tháng mười chín ngày rồi, ngõ nào cũng đi hẻm nào cũng tới mà người thương đâu chưa thấy, những hoài niệm về niềm hạnh phúc với người vợ, “cuộc sống nghèo vậy mà vui lám”, buồn “tìm hoài không gặp” đi liền với nỗi lo “sợ mắt mình dở rồi nên nhìn không ra cổ”, “tới chết không biết có gặp được không”. “Từ đấy, ông già Sáu Đèo chưa một lần trở lại”. Ông vẫn đang mải miết đi hết những đường ngang ngõ dọc để tìm người thương, hay ông chân đã mỏi, gối đã chồn, đã dừng lại ở đâu đó trên hành trình cuộc đời mà vẫn chưa thôi khắc khoải. Trên hành trình tìm kiếm khát khao hạnh phúc đó, con người Nam Bộ trong truyện Biển người mênh mông cho chúng ta thấy tình yêu và sự gắn bó sâu quê hương xứ sở, tình cảm thuỷ chung sâu sắc, tấm lòng yêu thương, vị tha.
Nguyễn Ngọc Tư đã khắc họa nhân vật con người Nam Bộ trong trang văn với tình huống truyện tâm trạng, cốt truyện đơn giản, điểm nhìn di chuyển vào các nhân vật; ngôn ngữ đậm chất Nam Bộ, giàu chất thơ cùng với giọng điệu buồn thương, ngậm ngùi để lại trong lòng người đọc nhìu cảm xúc khó tả. Người đọc cảm nhận về những mảnh đời bé nhỏ, bất hạnh, trôi nổi, lưu lạc, những khát khao kiếm tìm hạnh phúc âm thầm mà mãnh liệt. Hành trình kiếm tìm tình thân, hạnh phúc ấy cũng là hành trình tìm kiếm sự thanh thản trong tâm hồn, hành trình của trái tim. Truyện khiến cho mỗi người đọc không nguôi về “nỗi người” trong trang văn của tác giả.
Truyện khơi gợi sự đồng cảm của người đọc, cho độc giả cảm nhận được những giá trị quý giá của tình thân, tình người, của hạnh phúc. Truyện cũng cảnh báo về những hời hợt, thờ ơ của mỗi người có thể đang góp phần làm nên cái “Biển người mênh mông” trong cuộc sống. Qua đó, tác giả đã để lại những ấn tượng sâu sắc về là một người chiến sĩ giàu trách nhiệm, kỷ luật và nặng lòng với quê hương, đất nước. Và rồi, đến cả khi đã gấp lại trang sách cũ, người ta vẫn canh cánh mãi những nỗi niềm rất lạ, rất riêng.
- Phát triển nông nghiệp và đảm bảo an ninh lương thực
• Tạo nền tảng vững chắc cho xã hội: Đại Việt luôn chú trọng phát triển nền nông nghiệp, đặc biệt là trồng lúa nước, với hệ thống thủy lợi và ruộng đất được khai hoang và cải tạo. Các triều đại như Lý, Trần, và Lê đã xây dựng và cải tiến hệ thống thủy lợi, giúp tăng sản lượng lúa gạo và đảm bảo nguồn lương thực dồi dào cho xã hội.
• Tác động đối với ổn định xã hội: Nền nông nghiệp phát triển không chỉ đảm bảo nguồn thực phẩm cho người dân mà còn tạo ra sự ổn định chính trị. Khi nông dân có đủ lương thực, đời sống ổn định, họ có thể tập trung vào các hoạt động khác, từ đó giảm thiểu xung đột xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống.
- Khả năng duy trì quân đội và bảo vệ đất nước
• Cung cấp nguồn lực cho quốc phòng: Thành tựu kinh tế, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp và thủ công, đã tạo ra một nền tảng tài chính mạnh mẽ cho các triều đại Đại Việt. Điều này cho phép nhà nước duy trì và phát triển một quân đội mạnh mẽ để bảo vệ đất nước khỏi các mối đe dọa từ bên ngoài, như trong các cuộc kháng chiến chống quân Nguyên-Mông và quân Minh.
• Phát triển công nghiệp và chế tạo vũ khí: Cùng với nông nghiệp, ngành thủ công cũng phát triển mạnh mẽ. Các sản phẩm chế tác từ sắt, đồng, thép được sử dụng để sản xuất vũ khí và công cụ lao động, phục vụ cho cả công việc nông nghiệp lẫn quốc phòng.
- Thương mại phát triển và kết nối với thế giới bên ngoài
• Tạo ra nguồn thu từ thương mại: Đại Việt là một trung tâm thương mại sôi động, đặc biệt là vào thời kỳ Lý, Trần và Lê. Các sản phẩm nông sản, thủ công mỹ nghệ, gốm sứ và hàng hóa khác của Đại Việt được xuất khẩu, trong khi các sản phẩm nhập khẩu từ Trung Quốc, Ấn Độ và các nước Đông Nam Á cũng thúc đẩy sự giao lưu văn hóa và kinh tế.
• Giao thương làm giàu cho đất nước: Việc phát triển thương mại không chỉ giúp tăng trưởng nền kinh tế mà còn làm giàu cho nhà nước, từ đó tạo ra khả năng đầu tư cho các công trình công cộng như chùa chiền, đền tháp, trường học, và các công trình quốc phòng.
- Đẩy mạnh phát triển nghề thủ công và công nghiệp nhẹ
• Nâng cao trình độ kỹ thuật và năng suất lao động: Nghề thủ công, đặc biệt là sản xuất gốm sứ, dệt vải, rèn sắt, đã phát triển mạnh mẽ, giúp Đại Việt trở thành một trung tâm sản xuất hàng hóa chất lượng cao. Các sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Đại Việt không chỉ phục vụ cho nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu ra các thị trường quốc tế.
• Tạo cơ hội phát triển nền văn minh: Việc phát triển các nghề thủ công cũng góp phần tạo dựng một nền văn minh đặc sắc với những công trình kiến trúc, đền tháp, tượng đài và các sản phẩm nghệ thuật đặc sắc.
- Khuyến khích sự phát triển của các đô thị và hệ thống giao thông
• Hình thành các trung tâm đô thị phát triển: Các trung tâm thương mại như Thăng Long (Hà Nội), Hội An, và các đô thị lớn khác trở thành nơi tập trung kinh tế, văn hóa và chính trị. Điều này thúc đẩy sự phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học, và thương mại.
• Xây dựng hệ thống giao thông và đường thủy: Việc phát triển kinh tế cũng kéo theo sự cần thiết của các con đường giao thông, đặc biệt là đường thủy. Các tuyến đường sông, kênh rạch nối liền các vùng miền, giúp việc trao đổi hàng hóa trở nên dễ dàng và nhanh chóng hơn.
- Khả năng duy trì và phát triển nền văn hóa và giáo dục
• Kinh tế vững mạnh thúc đẩy văn hóa phát triển: Với nền kinh tế ổn định, Đại Việt đã có điều kiện phát triển nền văn hóa, đặc biệt là trong các lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học. Các triều đại đã chú trọng phát triển giáo dục, thành lập các trường học và tổ chức thi cử để tuyển chọn quan lại và trí thức.
• Đầu tư cho các công trình văn hóa: Kinh tế phát triển giúp nhà nước có nguồn lực để xây dựng các công trình tôn giáo, văn hóa, bao gồm chùa chiền, đền đài, và các công trình giáo dục, từ đó bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, đồng thời tạo ra môi trường ổn định cho sự phát triển của nền văn minh.
- Thực hiện các chính sách phân phối công bằng
• Phát triển chính sách ruộng đất: Nền kinh tế vững mạnh giúp Đại Việt thực hiện các chính sách phân phối tài sản hợp lý, đặc biệt là ruộng đất. Chính sách chia đất công, khai hoang và cung cấp ruộng đất cho nông dân không chỉ giúp tăng năng suất nông nghiệp mà còn củng cố sự ổn định xã hội.