

Nguyễn Đăng Khoa
Giới thiệu về bản thân



































Trong hành trình chinh phục tri thức đầy gian nan nhưng cũng vô cùng thú vị, ý thức tự học đóng vai trò như ngọn hải đăng soi đường, như đôi cánh vững chắc giúp học sinh bay cao, bay xa trên bầu trời tri thức. Không đơn thuần là việc học một mình, tự học là một quá trình chủ động, tích cực khám phá, lĩnh hội kiến thức và rèn luyện kỹ năng, xuất phát từ nhu cầu và động lực bên trong của mỗi học sinh. Vậy, vì sao ý thức tự học lại trở nên thiết yếu đối với sự phát triển toàn diện của thế hệ trẻ?
Trước hết, tự học khơi dậy và nuôi dưỡng niềm đam mê học tập thực sự. Khi học sinh tự mình tìm tòi, nghiên cứu những vấn đề mình quan tâm, họ sẽ cảm thấy hứng thú và chủ động hơn trong việc tiếp thu kiến thức. Thay vì thụ động lắng nghe những gì thầy cô truyền đạt, các em được tự do khám phá những góc khuất, những khía cạnh đa dạng của tri thức. Quá trình tự mình giải đáp thắc mắc, chinh phục những thử thách sẽ mang lại cảm giác thỏa mãn, thôi thúc các em tiếp tục khám phá những chân trời mới. Niềm đam mê này chính là ngọn lửa bền bỉ, giúp các em vượt qua những khó khăn, duy trì động lực học tập lâu dài.
Thứ hai, ý thức tự học phát triển khả năng tư duy độc lập và sáng tạo. Khi tự học, học sinh phải tự mình đặt câu hỏi, phân tích vấn đề, tìm kiếm thông tin, so sánh, đối chiếu và đưa ra những kết luận riêng. Quá trình này rèn luyện cho các em khả năng suy nghĩ logic, phản biện, nhìn nhận vấn đề một cách đa chiều. Không còn phụ thuộc hoàn toàn vào những kiến thức có sẵn, các em dần hình thành tư duy sáng tạo, dám nghĩ dám làm, có khả năng đưa ra những ý tưởng mới mẻ và độc đáo. Đây là những phẩm chất vô cùng quan trọng trong bối cảnh xã hội không ngừng thay đổi và đòi hỏi những con người có khả năng thích ứng cao.
Hơn nữa, tự học rèn luyện tính kỷ luật, tự giác và trách nhiệm. Việc tự đặt ra mục tiêu học tập, tự lên kế hoạch và thực hiện kế hoạch đó đòi hỏi học sinh phải có tính kỷ luật cao. Các em phải tự mình sắp xếp thời gian biểu hợp lý, loại bỏ những yếu tố gây xao nhãng và kiên trì theo đuổi mục tiêu đã đề ra. Quá trình này cũng giúp các em hình thành ý thức tự giác, không cần sự giám sát chặt chẽ từ bên ngoài mà vẫn chủ động hoàn thành nhiệm vụ học tập. Đồng thời, các em cũng học được cách chịu trách nhiệm về kết quả học tập của bản thân, nhận ra sự nỗ lực của bản thân có vai trò quyết định đến thành công.
Bên cạnh đó, trong bối cảnh bùng nổ thông tin và kiến thức thay đổi nhanh chóng, tự học trở thành một kỹ năng sống còn. Những kiến thức được học ở trường lớp chỉ là nền tảng ban đầu. Để không bị tụt hậu và có thể thích ứng với những yêu cầu mới của xã hội, học sinh cần phải có khả năng tự cập nhật kiến thức, tự học những kỹ năng mới một cách liên tục. Ý thức tự học giúp các em trở thành những người học tập suốt đời, có khả năng tự trang bị cho mình những hành trang cần thiết để bước vào tương lai.
Cuối cùng, tự học tạo ra sự khác biệt và lợi thế cạnh tranh cho học sinh trong tương lai. Những học sinh có ý thức tự học cao thường có kiến thức sâu rộng, kỹ năng tư duy tốt và khả năng giải quyết vấn đề hiệu quả. Đây là những yếu tố then chốt giúp các em nổi bật trong môi trường học tập cao hơn và trên thị trường lao động đầy cạnh tranh. Khả năng tự học cũng giúp các em dễ dàng thích nghi với những môi trường làm việc khác nhau và không ngừng phát triển bản thân trong suốt sự nghiệp.
Tóm lại, ý thức tự học không chỉ đơn thuần là một phương pháp học tập hiệu quả mà còn là một phẩm chất quan trọng, có vai trò quyết định đến sự thành công và phát triển toàn diện của học sinh. Nó khơi dậy đam mê, rèn luyện tư duy, xây dựng kỷ luật, trang bị kỹ năng sống còn và tạo lợi thế cạnh tranh trong tương lai. Vì vậy, việc khuyến khích và bồi dưỡng ý thức tự học cho học sinh cần được xem là một nhiệm vụ then chốt của gia đình, nhà trường và toàn xã hội, giúp các em trở thành những công dân chủ động, sáng tạo và thành công trong thế kỷ 21
a. Tính mạch lạc về nội dung trong văn bản thể hiện ở việc các đoạn văn được sắp xếp theo trình tự hợp lý: giới thiệu về cây rau khúc, miêu tả công đoạn chế biến xôi khúc, và cuối cùng là ý nghĩa của món xôi khúc trong đời sống văn hóa của làng quê. Mỗi đoạn đều tập trung vào một khía cạnh cụ thể, góp phần làm nổi bật chủ đề chung của văn bản. b. Phép liên kết trong đoạn văn "Lá khúc được hái về, rửa sạch, để ráo nước, rồi đưa vào cối giã nhuyễn. Sau đó hòa với nước sạch, lọc hết lá, chỉ còn nước trong" là phép nối thông qua các từ "rồi", "sau đó" liên kết các hành động trong quy trình chế biến lá khúc.
Câu 4. Một số từ ngữ, hình ảnh thể hiện tình cảm, cảm xúc của tác giả trong đoạn (2):
- "thơm tho mùi đồng bãi, mùi lúa vào đòng" (gợi cảm giác yêu mến, trân trọng sản vật quê hương).
- "Nhìn rá gạo đến thích mắt. Sục bàn tay vào mát rười rượi. Vốc nắm gạo lên, từng hạt gạo trơn bóng đùa nhau chảy qua kẽ tay. Xòe bàn tay vẫn sạch." (diễn tả sự thích thú, nâng niu những hạt gạo).
- "Chao ôi, một mùi thơm ngậy nồng nàn tỏa lan nức mũi ai bất chợt qua ngõ." (thể hiện sự ngỡ ngàng, say mê hương vị đặc trưng của xôi khúc).
- "Nhìn đã thèm." (bộc lộ sự hấp dẫn, khơi gợi cảm giác muốn thưởng thức).
Cái "tôi" của tác giả thể hiện trong đoạn văn này là một người gắn bó sâu sắc với quê hương, yêu mến và trân trọng những sản vật bình dị của quê nhà, có khứu giác và xúc giác nhạy bén để cảm nhận vẻ đẹp và hương vị đặc trưng của gạo nếp và xôi khúc. Tác giả còn cho thấy sự tỉ mỉ, am hiểu về quy trình chế biến món ăn truyền thống này.
Câu 5. Chất trữ tình trong văn bản được thể hiện qua:
- Ngôn ngữ miêu tả giàu hình ảnh và cảm xúc: Tác giả sử dụng nhiều từ ngữ gợi hình, gợi cảm để tái hiện vẻ đẹp của cây rau khúc, hương thơm của gạo nếp và xôi khúc, khơi gợi những cảm xúc chân thật trong lòng người đọc.
- Sự trân trọng và niềm tự hào về những điều bình dị của quê hương: Tình cảm yêu mến đối với cây rau khúc, món xôi khúc và phong tục của làng quê được thể hiện một cách tự nhiên và sâu lắng trong từng câu chữ.
- Khả năng gợi nhớ những ký ức đẹp về quê nhà: Đoạn văn khơi gợi trong lòng người đọc những hình ảnh thân thương, gần gũi về làng quê Việt Nam.
Câu 6. Đoạn văn trên khẳng định vai trò không thể thiếu của đĩa xôi khúc trong mâm lễ hội làng. Dù mâm lễ có cao sang đến đâu, thiếu đi món xôi được làm từ cây rau khúc đặc trưng của quê hương thì vẫn coi như chưa trọn vẹn. Bởi lẽ, xôi khúc không chỉ là một món ăn mà còn chứa đựng hồn cốt văn hóa, là phong tục truyền thống bao đời của làng quê. Việc dâng xôi khúc lên các đấng thần linh thể hiện tấm lòng thành kính, sự gắn bó sâu sắc với cội nguồn và những giá trị văn hóa tốt đẹp của người dân nơi thôn dã. Món xôi khúc trở thành một biểu tượng thiêng liêng, chứng giám cho đời sống tinh thần và tâm linh của cả cộng đồng.
ỗi người là một phiên bản khác nhau không ai giống ai, vì thế mà mỗi người sẽ có một tính cách, một lối sống riêng: có người thích sống ở phố, chạy theo xu hướng mới, có người thích thôn quê dân dã yên bình, thích những gì đơn giản. Xã hội ngày càng phát triển, càng văn minh thì lối sống giản dị lại càng trở nên cần thiết. Vậy giản dị là gì và lối sống giản dị được biểu hiện như thế nào?
Trước hết, hiểu ngắn gọn giản dị là sống đơn giản bỏ qua những sự cầu kì và không chạy đua theo xu hướng xã hội, sống phù hợp với hoàn cảnh của mình, không sống xa rời thực tại. Lối sống giản dị được biểu hiện qua muôn mặt đời sống trên các phương diện như lời ăn tiếng nói, lối sống, ăn mặc, hành động, bằng lòng với thực tại, không đòi hỏi cao từ phía người khác….Giản dị trong cách ăn mặc đó là mặc đơn giản, không lòe loẹt cầu kì và đặc biệt là phù hợp với từng hoàn cảnh khác nhau. Đơn cử khi tham gia một đám hiếu không nên mặc váy mà nên mặc quần áo trơn, ít họa tiết nhất có thể, tối màu; còn khi tham gia đám hỉ có thể mặc váy sáng màu nhạt, không nên quá cầu kì kiểu cách, miễn sao tạo được sử thoải mái trong hoạt động và giao tiếp. Còn trong lời ăn tiếng nói, giản dị được biểu hiện ở chỗ nói với âm thanh vừa đủ nghe, lời lẽ ngắn gọn đơn giản, dễ hiểu tránh lời thô lỗ dung tục và nói đúng, trúng vấn đề giao tiếp. Giản dị trong hành động, sinh hoạt được biểu hiện ăn đủ chất, đủ lượng, không làm thừa và đổ bỏ lãng phí, sống hòa đồng với mọi người xung quanh, tự nhiên và gần gũi trong cách cư xử….