

Trần Tiến Dũng
Giới thiệu về bản thân



































câu 1:
Tình yêu thương giữa người với người vô cùng quý giá, đáng trân, đáng quý. Tình yêu thương được hiểu là sự đồng cảm, sẻ chia và giúp đỡ lẫn nhau trong hoàn cảnh khó khăn, khắc nghiệt. Tình cảm ấy được biểu hiện rất cụ thể trong cuộc sống hằng ngày qua từng hành động, việc làm dẫu nhỏ bé. Đó có thể chỉ là một lời động viên, một số tiền ủng hộ, một bộ quần áo sạch sẽ cho người khó khăn...nhưng nó mang theo bao sức mạnh tinh thần lớn lao. Vì những yêu thương ấy mà người với người luôn gắn kết bên nhau và tạo nên những hình ảnh đẹp đẽ của tình người ấm êm. Không có sự yêu thương, con người chỉ là một loài vật máu lạnh sống bằng lí trí khô cằn và cả đời nhốt mình trong băng giá cô đơn. Yêu thương là ngọn lửa ấm thắp sáng trái tim, làm giàu nhân cách và làm đẹp cuộc sống của tất cả chúng ta. Bạn và tôi, chúng ta đừng để: nơi lạnh lẽo nhất không phải là Bắc Cực mà là trái tim con người!
câu 2:
Quê hương – hai tiếng gọi thiêng liêng mà bất cứ ai đi xa cũng đều muốn trở về. Quê hương đã trở thành máu thịt của ta, là hình ảnh đi vào thơ văn của biết bao nghệ sĩ. Bằng tình yêu quê hương da diết, nhà thơ Hoàng Cầm đã thể hiện sự đau xót của mình khi nghe tin Kinh Bắc bị giặc Pháp xâm lược qua bài thơ “Bên kia sông Đuống”.
Bài thơ được sáng tác năm 1948, đây là khoảng thời gian cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp diễn ra hết sức ác liệt. Khi Hoàng Cầm đang công tác ở chiến khu Việt Bắc thì nghe tin quê nhà bị giặc chiếm đóng. Ngay trong đêm ấy, ông đã viết liên tục với những dòng cảm xúc đau đớn đầy căm hờn đối với quân cướp nước. Sông Đuống là dòng sông chảy qua tỉnh Bắc Ninh. Quê hương của nhà thơ ở huyện Thuận Thành thuộc phần đất phía Nam bên kia sông Đuống. Vì vậy mà ông đã lấy “Bên kia sông Đuống” đặt làm nhan đề cho tác phẩm.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh quê hương Kinh Bắc trù phú, sầm uất trước khi bị giặc xâm lược:
“Em ơi! Buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ
Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc”
Tiếng gọi “Em ơi” và cách xưng hô anh – em thật nhẹ nhàng mà thắm thiết. Đại từ phiếm chỉ “em” gợi cho bạn đọc nhiều cách hiểu. Đây có thể là một người nào đó có quan hệ thân thiết với tác giả. Cũng có thể tác giả đang phân thân để trò chuyện với chính mình hoặc là tiếng gọi tất cả những người con yêu nước, những người đang chịu sự áp bức của quân xâm lược. Câu thơ đầu tiên vừa như một lời an ủi vừa như một lời giãi bày nỗi lòng của tác giả.
Sông Đuống đẹp một cách bình dị với những bờ “cát trắng phẳng lì” trải dài, đầy phù sa. Các từ láy “lấp lánh”, “xanh xanh”, “biêng biếc” đã thể hiện một vẻ đẹp êm đềm, thanh bình của vùng đất Kinh Bắc. Nơi ấy có dòng sông Đuống “nằm nghiêng nghiêng”, có những bãi mía, bờ dâu, những bãi ngô, bãi khoai ngút ngàn. Đó là những đặc trưng nổi bật của làng quê Việt Nam.
Có làng quê nào lại không có bãi mía, bờ dâu, thửa ruộng ngô, khoai nối tiếp? Chỉ bằng vài nét gợi tả nhưng Hoàng Cầm đã giúp chúng ta nhận thấy cuộc sống của nhân dân ở đây khá no ấm. Nhưng những điều đó đã thuộc về thời gian quá khứ. Từ “ngày xưa” khiến chúng ta nhớ đến các câu chuyện cổ tích, những hoài niệm về một thời đã xa nay không còn nữa.
Dòng sông yêu thương không chỉ mang vẻ đẹp lấp lánh, hiền hòa mà nó còn là chứng nhân lịch sử. Sông Đuống được nhân hóa với tư thế “nằm nghiêng nghiêng”. Đây là tư thế nép mình khiêm tốn. Phải chăng dòng sông ấy đã chứng kiến và trải qua bao thăng trầm của lịch sử dân tộc nên giờ đây trầm lắng hơn? Sông Đuống trở nên có hồn, có hình dáng uốn lượn nhịp nhàng. Dòng sông không ở trạng thái lặng yên mà nó “trôi đi” cùng vẻ đẹp mĩ lệ, sáng lấp lánh.
Khi giặc Pháp đến xâm chiếm đất nước ta thì tất cả những gì tươi đẹp đã lùi vào dĩ vãng, để lại một bầu trời nhớ thương, nuối tiếc những tháng ngày quê hương êm ấm, yên bình:
“Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay”
Đó không chỉ là nỗi đau về thể xác mà còn là nỗi đau về mặt tinh thần. Mảnh đất quê hương bị giày xéo khiến trái tim tác giả không khỏi đau xót. Phải là một người yêu quê hương, gắn bó với quê hương sâu sắc thì nhà thơ mới thấu hiểu được nỗi đau ấy. Những bãi mía, bờ dâu chỉ còn trong kí ức, trong nỗi nhớ tiếc của Hoàng Cầm khi đứng ở bên này sông nhìn về quê hương. Biện pháp tu từ so sánh cùng cụm từ “sao nhớ tiếc”, “sao xót xa” vang lên như một điệp khúc đã khắc họa sâu hơn nỗi đau mất mát. Quê hương như một phần của cơ thể con người, mất đi quê hương làm sao con người có thể không xót xa, đau đớn?
Càng nhớ tiếc về Kinh Bắc bao nhiêu thì mảnh đất ấy lại hiện rõ trong trí nhớ nhà thơ bấy nhiêu:
“Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”
Tranh Đông Hồ là loại tranh dân gian được vẽ trên giấy điệp hay còn gọi là giấy gió. Nó thể hiện nét văn hóa truyền thống của đất nước. Nội dung của những bức tranh thường là các phong tục tập quán của làng quê hay là những nét vẽ về con người, con vật, về đám cưới chuột, … Màu sắc trong tranh tươi tắn khiến bức tranh trở nên sinh động, có hồn. “Màu dân tộc” trên tranh Đông Hồ chính là linh hồn, là cốt cách dân tộc Việt Nam. Quê hương ấy còn có hương thơm nồng của lúa nếp mùa bội thu.
Nhưng chiến tranh đã cướp đi tất cả:
“Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa trăm ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu”?
Từ láy “ngùn ngụt” không chỉ miêu tả ngọn lửa hung tàn của địch mà nó còn biểu hiện ý chí căm thù ngùn ngụt, sục sôi trong mỗi người con yêu nước. Quân ngoại xâm đã thiêu cháy hết những mái nhà êm ấm khiến vạn vật tan tác, chia lìa. Những hình ảnh “đám cưới chuột, đàn lợn” đều là những hình ảnh đặc trưng, tiêu biểu của dòng tranh Đông Hồ, thể hiện cuộc sống bình dị, yên ấm của con người, thể hiện nét đẹp văn hóa Việt Nam…. giờ đây bị hủy diệt trước thảm họa xâm lăng.
Vẻ đẹp của con người cũng được nhà thơ khắc họa bằng một nỗi nhớ khôn nguôi:
“Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu”
Cuộc sống của người dân nơi đây khá đủ đầy về đời sống vật chất. Bên cạnh đó, đời sống tinh thần của họ cũng phong phú với các phong tục nhuộm răng, ăn trầu,… Những điều ấy đã tạo nên nét riêng của con người Kinh Bắc. Người con gái Kinh Bắc vô cùng duyên dáng:
“Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu toả nắng”
“Khuôn mặt búp sen” xinh xắn, thanh tú, nụ cười như nắng mùa thu dịu nhẹ mà lan tỏa đã để lại ấn tượng khó phai mờ trong lòng bạn đọc. Sự liên tưởng của nhà thơ khiến câu thơ trở nên thật mềm mại, uyển chuyển. Vẻ đẹp của con người đã hòa cùng vẻ đẹp của thiên nhiên để tạo nên một vẻ đẹp hài hòa, quyến rũ.
Đồng thời, nhà thơ cũng miêu tả sự tần tảo, một nắng hai sương của những người mẹ:
“Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy đầm hoen sương sớm”
Những bà mẹ hàng ngày đã phải vất vả sớm hôm, lam lũ, hi sinh rất nhiều cho gia đình. Gánh hàng của mẹ nào có gì nhiều, mẹ chỉ có “dăm miếng cau khô”, “mấy lọ phẩm hồng”, “vài thếp giấy đầm”. Vậy mà “lũ quỷ mắt xanh” cũng cướp bóc, đánh đập làm “vết máu loang chiều mùa đông”, làm tan tác cả buổi họp chợ vốn yên bình. Những động từ “đạp”, “khua”, “trừng trợn”, “xì xồ” diễn tả hành động tàn bạo, dã man của quân giặc. Chúng đã gây ra bao đau thương cho quê hương, dân tộc ta. Chiến tranh thật khốc liệt, chiến tranh khiến khung cảnh quê hương trở nên quạnh hiu, hoang vắng:
“Lá đa lác đác trước lều
Vài ba vết máu loang chiều mùa đông”
Nhịp điệu câu thơ chậm rãi, nỗi buồn thương như thấm vào từng cảnh vật. Vài chiếc lá đa lác đác, thưa thớt cùng màu đỏ của máu đã loang dần, loang dần ra theo chiều đông quạnh vắng. Còn gì đau xót hơn như thế? Máu và nước mắt như đã hòa trộn vào nhau để cất lên lời tố cáo chiến tranh phi nghĩa, tố cáo quân xâm lược vô nhân tính.
Chiến tranh đã trở thành nỗi ám ảnh đối với những đứa trẻ ngây thơ, vô tội. Những đứa trẻ ngay cả trong cơn mơ cũng “thon thót giật mình” vì “tiếng súng dồn tựa sấm”, vì bóng giặc không buông tha cho bất cứ một ai dù là trẻ nhỏ. Tội ác của chúng đã in hằn vào mảnh đất quê hương, nhưng càng bị chà đạp thì nhân dân ta càng quyết tâm chiến đấu không nhụt ý chí:
“Đã có đất này chép tội,
Chúng ta không biết nguôi hờn”
“Bộ đội bên sông đã trở về” cùng nhân dân đứng lên chống giặc, mang lại bình yên cho quê hương, xoá hết “những giờ thảm thương” mà nhân dân phải gánh chịu. Cả quân và dân ta đã đoàn kết một lòng để quê hương sạch bóng dáng quân thù:
“Mà cánh đồng ta càng chan chứa
Bao nhiêu nắng đẹp mùa xuân
Gió đưa tiếng hát về gần
Thợ cấy đánh giặc, dân quân cày bừa”
Mảnh đất Kinh Bắc sẽ trở lại trù phú, yên bình như vốn có và sự nổi dậy của quân ta đã khiến:
“Trại giặc bắt đầu run trong sương
Dao loé giữa chợ
Gậy lùa cuối thôn
Lúa chín vàng hoe giặc mất hồn
Ăn không ngon
Ngủ không yên
Đứng không vững
Chúng mày phát điên
Quay cuồng như xéo lên đống lửa”
Những câu thơ dài ngắn khác nhau khiến cho Nhịp thơ cũng trở nên dồn dập, hối hả diễn tả khí thế sục sôi chiến đấu của quê hương Kinh Bắc anh hùng. Trước hoàn cảnh đó, giặc “mất hồn”, “phát điên”. Chúng không thể ngờ rằng những con người nhỏ bé lại mang sức mạnh phi thường đến như vậy.
Những câu thơ cuối bài đã thể hiện một niềm mong ước thiết tha về một cuộc sống thanh bình, no ấm:
“Bao giờ về bên kia sông Đuống
Anh lại tìm em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trẩy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh”.
Hình ảnh cô gái xuất hiện với bộ yếm thắm thắt lụa hồng hiện lên thật đẹp. Người con gái Kinh Bắc đẹp một vẻ quyến rũ, thu hút trong “hội non sông”. Nhịp thơ nhanh bộc lộ sự hối hả, mong chờ ngày hòa bình để tác giả được thấy vẻ đẹp trong sáng, tươi tắn đó.
“Bên kia sông Đuống” đã thể hiện tình yêu quê hương mãnh liệt đồng thời cũng thể hiện lòng căm thù giặc sâu sắc của ông. Hoàng Cầm đã tái hiện những bi thương, mất mát của quê hương trong chiến tranh, qua đó cũng lên tiếng tố cáo tội ác của giặc. Câu hỏi ” Bây giờ tan tác về đâu”, “Bây giờ đi đâu về đâu” cùng sự thay đổi của nhịp thơ và các hình ảnh ẩn dụ, so sánh đã khắc sâu thêm nỗi đau, nỗi căm hờn của tác giả.
Có thể nói, bài thơ không chỉ là tiếng lòng riêng của Hoàng Cầm mà còn là tiếng lòng chung của những người con đất Kinh Bắc, những người con yêu nước.
Câu 1 (0.5 điểm):
Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản là biểu cảm.
Câu 2 (0.5 điểm):
Văn bản thể hiện sự trăn trở của con người trước những tổn thương mà mình vô tình hay hữu ý gây ra cho thiên nhiên, vạn vật và cả những tình cảm, mối quan hệ trong cuộc sống. Tác giả khơi gợi ý thức trách nhiệm, sự trân trọng và nâng niu đối với thế giới xung quanh.
Câu 3 (1.0 điểm):
Biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn (7): Điệp ngữ.
Phân tích: Các cụm từ “Mặt đất quen tha thứ”, “Đại dương bao la quen độ lượng”, “Cánh rừng mênh mông quen trầm mặc”... được lặp lại theo một cấu trúc nhất định. Cách lặp này giúp nhấn mạnh sự bao dung, nhẫn nhịn và im lặng chịu đựng của thiên nhiên trước những tổn thương do con người gây ra. Đồng thời, nó cũng khơi gợi sự suy ngẫm, thức tỉnh trong lòng người đọc về trách nhiệm đối với thế giới xung quanh.
Câu 4 (1.0 điểm):
Tác giả nói “Thỉnh thoảng bàn chân nên bị gai đâm” để nhấn mạnh rằng con người cần biết cảm nhận nỗi đau, từ đó trân trọng và ý thức hơn về những gì mình đang tác động đến thế giới. Khi bị đau, con người mới giật mình nhận ra tổn thương là rỉ máu, đồng nghĩa với việc những hành động vô tâm của mình có thể gây hậu quả nghiêm trọng không chỉ với thiên nhiên mà còn với những con người xung quanh. Đây là lời nhắc nhở về sự tỉnh thức và trách nhiệm trong mỗi hành động của con người.
Câu 5 (1.0 điểm):
Bài học ý nghĩa nhất rút ra từ văn bản là: Hãy sống với sự trân trọng và trách nhiệm đối với thế giới xung quanh. Con người không chỉ cần nâng niu thiên nhiên mà còn phải biết giữ gìn tình cảm, mối quan hệ với nhau. Đừng vô tâm làm tổn thương môi trường hay người khác chỉ vì sự hời hợt của bản thân. Thỉnh thoảng, chúng ta cần dừng lại, cảm nhận và suy ngẫm để không vô tình gây ra những vết thương mà chính mình cũng không nhận ra.
Câu:1
“Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta
Mà hãy hỏi ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay”.
Câu hát đã gợi cho ta nhiều suy ngẫm về việc sống có ích và cống hiến những điều tốt đẹp nhất cho xã hội. Sống có ích: là việc mỗi chúng ta sống có ước mơ, hoài bão, biết vươn lên trong cuộc sống và chan hòa, yêu thương, giúp đỡ những người xung quanh, có ý thức cống hiến cho cuộc đời. Mỗi người muốn trở thành một công dân tốt trước hết phải có tư duy tích cực và cố gắng sống có ích. Còn cống hiến là sự hy sinh bản thân, là dốc lòng đóng góp công sức vào việc chung của tập thể, cộng đồng. Đối với thời đại hiện nay, sự cống hiến của các thế hệ, đặc biệt là của thế hệ trẻ là vô cùng quan trọng. Ta có thể thấy được sự cống hiến của thế hệ trẻ ở mọi lúc mọi nơi. Trong thời chiến, họ là những thanh niên xung phong xả thân mình vì độc lập tự do của Tổ quốc. Trở lại thời bình, thế hệ trẻ lại miệt mài học tập, rèn luyện đem lại những tấm huy chương sáng giá, không ngừng khám phá, tìm tòi sáng tạo những cái mới góp phần xây dựng đất nước. Tất cả những sự cống hiến ấy thật cao đẹp và có ý nghĩa thật sâu sắc. Việc làm ấy không chỉ giúp thế hệ trẻ có những hiểu biết sâu rộng, làm nền tảng để bước vào tương lai, thể hiện một phong cách sống cao đẹp mà còn giúp đất nước ngày càng phát triển, hòa nhập với thế giới một cách bình đẳng, khẳng định vị thế trước toàn thế giới. Chính vì những lợi ích to lớn như vậy mà thế hệ trẻ phải biết cách gìn giữ và phát huy hơn nữa, cống hiến nhiều hơn nữa để giúp đất nước ngày càng phát triển. Song, bên cạnh việc thế hệ trẻ biết cống hiến cho đất nước thì một số bạn trẻ khác lại chỉ biết mưu cầu lợi ích riêng, không biết cống hiến, hay lười nhác, ỷ lại ta phải lên án những hành động ích kỷ đó và bài trừ nó để xã hội được phát triển tốt hơn. Việc cống hiến của thế hệ trẻ đối với đất nước là vô cùng quan trọng và là một hành động cao đẹp. Là học sinh, là thế hệ trẻ của đất nước, tôi cũng như các bạn hãy học tập, rèn luyện bản thân để góp một phần nhỏ bé của mình cống hiến cho quê hương, đất nước ngày càng giàu đẹp, văn minh.
Câu:2
“Nuôi con buôn tảo bán tần,
Chỉ mong con lớn nên thân với đời.
Những khi trái nắng trở trời,
Con đau là mẹ đứng ngồi không yên.
Trọn đời vất vả triền miên,
Chăm lo bát gạo đồng tiền nuôi con”
Mẹ là tiếng gọi thiêng liêng nhất trên cuộc đời này. Mẹ yêu thương, chăm sóc và dạy dỗ con cái, cho con những điều tốt nhất không quản khó khăn, nhọc nhằn. Có lẽ chính vì vậy, mẹ đã trở thành đề tài sáng tác muôn thuở cho thơ văn. Nhà thơ Lưu Quang Vũ cũng đã chọn chủ đề về mẹ để sáng tác bài thơ “Áo cũ”. Bài thơ được sáng tác năm 1963, khi tác giả mới chỉ 15 tuổi học lớp 9 và đến năm 2002, Áo mới đã được in trong tập thơ tình của nhà xuất bản Văn học. Bài thơ là tình yêu của tác giả dành cho mẹ và sự trân trọng kí ức tuổi thơ của mình.
Mở đầu bài thơ, nhà thơ Lưu Quang Vũ đưa cảm xúc của mình vào trong hình ảnh chiếc áo cũ một cách thật đặc biệt:
“Áo cũ rồi, mỗi ngày thêm ngắn
Chỉ đứt sờn màu bạc hai vai
Thương áo cũ như là thương ký ức
Đựng trong hồn cho mắt phải cay cay.”
Chiếc áo khi mặc đến cũ rồi, sẽ mỗi ngày ngắn đi một chút, vì sao lại như vậy? Đó là vì theo thời gian chiếc áo bị cũ đi, cùng với đó là chúng ta thêm lớn hơn, nên chiếc áo bị ngắn dần. Vậy mà chiếc áo cũ mà nhà thơ Lưu Quang Vũ mang tới còn cũ đến độ “đứt sờn màu bạc hai vai”, có lẽ nhà thơ đã mặc chiếc áo đó từ rất lâu cho tới khi sáng tác bài thơ, trở thành một cậu thiếu niên học lớp 9. Điều này cũng gợi cho người đọc thấy được hoàn cảnh khi đó của gia đình tác giả không mấy khá giả nên áo phải mặc đến nỗi ngắn và cũ sờn màu, bạc vai. Nhìn chiếc áo mà nhà thơ thương nó như thương kí ức của mình đã trải qua, kí ức đó là gì mà khiến cho tác giả lại “mắt phải cay cay”, nghẹn ngào muốn khóc?
Kí ức khiến nhà thơ Lưu Quang Vũ phải cay mắt là những kí ức về người mẹ dấu yêu của mình:
“Mẹ vá áo mới biết con chóng lớn
Mẹ không còn nhìn rõ chỉ để xâu kim
Áo con có đường khâu tay mẹ vá
Thương mẹ nhiều con càng yêu áo thêm.
Áo đã ở với con qua mùa qua tháng
Cũ rồi con vẫn quý vẫn thương
Con chẳng nỡ mỗi lần thay áo mới
Áo dài hơn thấy mẹ cũng già hơn.”
Sau mỗi lần rách áo rồi lại vá để mặc lại, mẹ đã nhận ra “con chóng lớn”. Nhưng điều này đồng nghĩa với việc mẹ cũng đã già đi. Giờ đây mẹ vá áo cho con khó khăn hơn trước, mẹ đã già nên mắt kém “không còn nhìn rõ chỉ để xâu kim”. Mỗi lần con mặc chiếc áo đó đều cảm nhận được “đường khâu tay mẹ vá”, nên con yêu mẹ biết bao nhiêu càng yêu áo thêm bấy nhiêu vì đó là công sức mẹ may vá, tình thương mẹ dành cho con. Chiếc áo cũ mẹ vá đã được tác giả dùng “qua mùa qua tháng”, chỉ một khoảng thời gian dài. Tuy áo đã cũ nhưng tác giả khẳng định mình “vẫn quý vẫn thương”. Chính vì yêu mẹ nên mỗi lần thay áo mới, nhà thơ Lưu Quang Vũ đều “không nỡ”. Lần thay áo mới sẽ phải mua áo dài hơn vì con cũng đã lớn hơn, không còn mặc vừa chiếc áo cũ ngắn nữa, điều đó cũng là minh chứng mẹ đang già hơn trước, khiến nhà thơ mặc áo mới nhưng lòng không vui vì thời gian đang đẩy mình lớn lên nhưng lấy đi tuổi xuân của mẹ.
Đoạn cuối của bài thơ, chính là thông điệp mà tác giả Lưu Quang Vũ muốn gửi gắm đến cho người đọc cũng là lời tác giả tự nhắc nhở mình:
“Hãy biết thương lấy những manh áo cũ
Để càng thương lấy mẹ của ta
Hãy biết thương những gì đã cùng ta sống
Những gì trong năm tháng trôi qua...”
Mỗi người chúng ta phải biết thương lấy “những manh áo cũ”, rộng ra chính là những kỉ niệm của quá khứ, những điều mà mình được nhận. Để rồi càng thương mẹ mình hơn, vì mẹ đã vất vả nuôi lớn chúng ta, săn sóc chúng ta từng cái ăn, cái mặc. Phải biết thương yêu, trân trọng những người xung quanh và những điều đã từng gắn bó với chính mình. Vì năm tháng trôi qua nào đợi chờ điều gì, hãy yêu thương lấy mẹ cha, người sinh thành ra chúng ta và những điều thân mến xung quanh để không phải hối hận muộn màng.
Bài thơ Áo cũ tuy sử dụng những câu từ đơn giản nhưng lại mang tới cho chúng ta những bài học thật hay và sâu sắc. Trong đó chứa đựng tình yêu của tác giả Lưu Quang Vũ dành cho mẹ của mình cũng như thông điệp đầy ý nghĩa tác giả gửi tới người đọc về tình thương mẹ và những điều gắn bó xung quanh. Bài thơ cũng thể hiện sự tài năng của nhà thơ khi có thể sáng tác một bài thơ ý nghĩa như vậy ở độ tuổi còn nhỏ.
Câu:1
Xác định ngôi kể: Người kể chuyện ngôi thứ 1, xưng “tôi”.
câu:2
- Đoạn trích sử dụng điểm nhìn bên trong, mọi sự kiện và tình huống xảy ra đều được đánh giá dưới góc nhìn của người con gái Chi-hon.
Câu:3
- Biện pháp nghệ thuật: Lặp cấu trúc “Lúc mẹ...”
- Tác dụng:
+ Nhấn mạnh khoảnh khắc mẹ bị lạc, Chi-hon đang bận rộn sống cuộc đời riêng.
+ Tăng tính liên kết và tạo nhịp điệu cho đoạn văn.
Câu:4
- Người mẹ của Chi-hon có phẩm chất mạnh mẽ, kiên quyết bảo vệ cho con của mình, ngay cả khi bà phải đối mặt với một môi trường lạ lẫm; bà cũng vô cùng yêu thương con, muốn con được thử và mặc những món đồ bà thấy thật đẹp.
Câu:5
- Chi-hon hối tiếc vì đã không thử mặc chiếc váy mẹ chọn, khiến mẹ buồn phiền.
- Học sinh nêu được một trong những ý sau:
+ Những hành động vô tâm đôi khi có thể khiến những người xung quanh cảm thấy tổn thương, dù ta không cố ý.
+ Ngay cả với những người thân thiết nhất, ta cũng cần chú ý cư xử một cách tinh tế.
+ Khi ta chú tâm trong cách ứng xử với người khác, ta cũng nhận được những điều tương tự.