

Đặng Tiến Sơn
Giới thiệu về bản thân



































Câu 1 (2.0 điểm): Viết đoạn văn trình bày suy nghĩ về tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường (khoảng 200 chữ)
Môi trường là nền tảng thiết yếu cho sự sống của con người và muôn loài. Việc bảo vệ môi trường không chỉ là trách nhiệm, mà còn là điều kiện để đảm bảo sự phát triển bền vững của xã hội. Trước tình trạng biến đổi khí hậu, ô nhiễm không khí, nguồn nước cạn kiệt và sự tuyệt chủng của nhiều loài sinh vật, chúng ta không thể đứng ngoài cuộc. Nếu môi trường bị tàn phá, sức khỏe thể chất và tinh thần của con người sẽ bị đe dọa nghiêm trọng, thậm chí như văn bản đã đề cập, có thể dẫn đến những tổn thương tâm lý sâu sắc – hiện tượng “tiếc thương sinh thái”. Bảo vệ môi trường là bảo vệ chính chúng ta, bảo vệ tương lai của thế hệ mai sau. Việc làm này cần bắt đầu từ những hành động nhỏ: tiết kiệm điện, trồng cây, hạn chế rác thải nhựa, nâng cao ý thức cộng đồng. Mỗi người đều có vai trò trong hành trình gìn giữ trái đất – ngôi nhà chung của nhân loại.
Câu 2 (4.0 điểm): Viết bài văn nghị luận so sánh hình tượng người ẩn sĩ trong hai bài thơ
Trong văn học trung đại Việt Nam, hình tượng người ẩn sĩ là biểu tượng cho lối sống cao khiết, tách biệt trần thế, hướng đến tự do tinh thần và sự hài hòa với thiên nhiên. Qua hai bài thơ *"Nhàn"* (Nguyễn Bỉnh Khiêm) và bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, hình tượng ẩn sĩ hiện lên với những sắc thái khác nhau nhưng đều thể hiện sâu sắc tâm hồn thanh cao và nhân cách đáng kính.
Trong bài thơ *"Nhàn"*, Nguyễn Bỉnh Khiêm khắc họa hình ảnh một người ẩn sĩ chủ động rút lui khỏi chốn quan trường ồn ào, tìm về cuộc sống giản dị nơi thôn dã. Cuộc sống ấy gắn liền với lao động tự nhiên (“một mai, một cuốc, một cần câu”), với những thức ăn cây nhà lá vườn (“măng trúc”, “giá”), và những thú vui an nhiên như tắm hồ, uống rượu. Quan trọng hơn cả, ông xem danh lợi là phù du: “Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”. Nhân vật trữ tình ở đây hiện lên như một triết nhân sống thuận theo tự nhiên, lấy nhàn làm vui, lấy thanh bần làm giàu, thể hiện lý tưởng “an bần lạc đạo” của Nho giáo pha lẫn tư tưởng Lão – Trang.
Ngược lại, bài thơ thu của Nguyễn Khuyến không trực tiếp nói về “nhàn” hay “ở ẩn” nhưng lại vẽ nên một bức tranh thu tĩnh lặng, nhuốm màu cô liêu. Người ẩn sĩ nơi đây hiện lên qua hình ảnh thiên nhiên vắng lặng – “cần trúc lơ phơ”, “song thưa”, “nước biếc”, “hoa năm ngoái” – tất cả gợi cảm giác thoát tục, trầm mặc. Ông dường như muốn viết (“nhân hứng cũng vừa toan cất bút”), nhưng rồi lại “thẹn với ông Đào” – một bậc ẩn sĩ nổi tiếng trong văn hóa Trung Hoa. Cảm giác “thẹn” ấy thể hiện sự tự soi mình, cho thấy một tâm thế khiêm nhường, sâu sắc và đầy suy tư trước lý tưởng ẩn dật.
Nếu Nguyễn Bỉnh Khiêm chủ động lựa chọn lối sống ẩn cư để giữ trọn khí tiết, sống an nhiên tự tại thì Nguyễn Khuyến lại thể hiện sự cô đơn, băn khoăn và tự vấn. Một bên là sự dứt khoát, minh triết; bên kia là sự lặng lẽ, sâu kín và nhiều trăn trở. Tuy vậy, cả hai đều gặp nhau ở điểm chung: coi trọng thiên nhiên, xa lánh danh lợi, tìm kiếm sự trong sạch về tinh thần trong một xã hội nhiều biến động.
Qua đó, ta thấy được vẻ đẹp của con người ẩn sĩ trong văn học trung đại – đó không chỉ là người rút lui khỏi cuộc đời mà còn là người mang trong mình một lý tưởng cao cả: giữ gìn nhân cách và sống thuận theo lẽ đạo. Đây là một bài học sâu sắc cho con người hôm nay trong việc lựa chọn giá trị sống và cách đối diện với đời sống xô bồ, thực dụng.
Câu 1 (2.0 điểm): Viết đoạn văn trình bày suy nghĩ về tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường (khoảng 200 chữ)
Môi trường là nền tảng thiết yếu cho sự sống của con người và muôn loài. Việc bảo vệ môi trường không chỉ là trách nhiệm, mà còn là điều kiện để đảm bảo sự phát triển bền vững của xã hội. Trước tình trạng biến đổi khí hậu, ô nhiễm không khí, nguồn nước cạn kiệt và sự tuyệt chủng của nhiều loài sinh vật, chúng ta không thể đứng ngoài cuộc. Nếu môi trường bị tàn phá, sức khỏe thể chất và tinh thần của con người sẽ bị đe dọa nghiêm trọng, thậm chí như văn bản đã đề cập, có thể dẫn đến những tổn thương tâm lý sâu sắc – hiện tượng “tiếc thương sinh thái”. Bảo vệ môi trường là bảo vệ chính chúng ta, bảo vệ tương lai của thế hệ mai sau. Việc làm này cần bắt đầu từ những hành động nhỏ: tiết kiệm điện, trồng cây, hạn chế rác thải nhựa, nâng cao ý thức cộng đồng. Mỗi người đều có vai trò trong hành trình gìn giữ trái đất – ngôi nhà chung của nhân loại.
Câu 2 (4.0 điểm): Viết bài văn nghị luận so sánh hình tượng người ẩn sĩ trong hai bài thơ
Trong văn học trung đại Việt Nam, hình tượng người ẩn sĩ là biểu tượng cho lối sống cao khiết, tách biệt trần thế, hướng đến tự do tinh thần và sự hài hòa với thiên nhiên. Qua hai bài thơ *"Nhàn"* (Nguyễn Bỉnh Khiêm) và bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, hình tượng ẩn sĩ hiện lên với những sắc thái khác nhau nhưng đều thể hiện sâu sắc tâm hồn thanh cao và nhân cách đáng kính.
Trong bài thơ *"Nhàn"*, Nguyễn Bỉnh Khiêm khắc họa hình ảnh một người ẩn sĩ chủ động rút lui khỏi chốn quan trường ồn ào, tìm về cuộc sống giản dị nơi thôn dã. Cuộc sống ấy gắn liền với lao động tự nhiên (“một mai, một cuốc, một cần câu”), với những thức ăn cây nhà lá vườn (“măng trúc”, “giá”), và những thú vui an nhiên như tắm hồ, uống rượu. Quan trọng hơn cả, ông xem danh lợi là phù du: “Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”. Nhân vật trữ tình ở đây hiện lên như một triết nhân sống thuận theo tự nhiên, lấy nhàn làm vui, lấy thanh bần làm giàu, thể hiện lý tưởng “an bần lạc đạo” của Nho giáo pha lẫn tư tưởng Lão – Trang.
Ngược lại, bài thơ thu của Nguyễn Khuyến không trực tiếp nói về “nhàn” hay “ở ẩn” nhưng lại vẽ nên một bức tranh thu tĩnh lặng, nhuốm màu cô liêu. Người ẩn sĩ nơi đây hiện lên qua hình ảnh thiên nhiên vắng lặng – “cần trúc lơ phơ”, “song thưa”, “nước biếc”, “hoa năm ngoái” – tất cả gợi cảm giác thoát tục, trầm mặc. Ông dường như muốn viết (“nhân hứng cũng vừa toan cất bút”), nhưng rồi lại “thẹn với ông Đào” – một bậc ẩn sĩ nổi tiếng trong văn hóa Trung Hoa. Cảm giác “thẹn” ấy thể hiện sự tự soi mình, cho thấy một tâm thế khiêm nhường, sâu sắc và đầy suy tư trước lý tưởng ẩn dật.
Nếu Nguyễn Bỉnh Khiêm chủ động lựa chọn lối sống ẩn cư để giữ trọn khí tiết, sống an nhiên tự tại thì Nguyễn Khuyến lại thể hiện sự cô đơn, băn khoăn và tự vấn. Một bên là sự dứt khoát, minh triết; bên kia là sự lặng lẽ, sâu kín và nhiều trăn trở. Tuy vậy, cả hai đều gặp nhau ở điểm chung: coi trọng thiên nhiên, xa lánh danh lợi, tìm kiếm sự trong sạch về tinh thần trong một xã hội nhiều biến động.
Qua đó, ta thấy được vẻ đẹp của con người ẩn sĩ trong văn học trung đại – đó không chỉ là người rút lui khỏi cuộc đời mà còn là người mang trong mình một lý tưởng cao cả: giữ gìn nhân cách và sống thuận theo lẽ đạo. Đây là một bài học sâu sắc cho con người hôm nay trong việc lựa chọn giá trị sống và cách đối diện với đời sống xô bồ, thực dụng.
Câu 1 (2.0 điểm): Viết đoạn văn trình bày suy nghĩ về tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường (khoảng 200 chữ)
Môi trường là nền tảng thiết yếu cho sự sống của con người và muôn loài. Việc bảo vệ môi trường không chỉ là trách nhiệm, mà còn là điều kiện để đảm bảo sự phát triển bền vững của xã hội. Trước tình trạng biến đổi khí hậu, ô nhiễm không khí, nguồn nước cạn kiệt và sự tuyệt chủng của nhiều loài sinh vật, chúng ta không thể đứng ngoài cuộc. Nếu môi trường bị tàn phá, sức khỏe thể chất và tinh thần của con người sẽ bị đe dọa nghiêm trọng, thậm chí như văn bản đã đề cập, có thể dẫn đến những tổn thương tâm lý sâu sắc – hiện tượng “tiếc thương sinh thái”. Bảo vệ môi trường là bảo vệ chính chúng ta, bảo vệ tương lai của thế hệ mai sau. Việc làm này cần bắt đầu từ những hành động nhỏ: tiết kiệm điện, trồng cây, hạn chế rác thải nhựa, nâng cao ý thức cộng đồng. Mỗi người đều có vai trò trong hành trình gìn giữ trái đất – ngôi nhà chung của nhân loại.
Câu 2 (4.0 điểm): Viết bài văn nghị luận so sánh hình tượng người ẩn sĩ trong hai bài thơ
Trong văn học trung đại Việt Nam, hình tượng người ẩn sĩ là biểu tượng cho lối sống cao khiết, tách biệt trần thế, hướng đến tự do tinh thần và sự hài hòa với thiên nhiên. Qua hai bài thơ *"Nhàn"* (Nguyễn Bỉnh Khiêm) và bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, hình tượng ẩn sĩ hiện lên với những sắc thái khác nhau nhưng đều thể hiện sâu sắc tâm hồn thanh cao và nhân cách đáng kính.
Trong bài thơ *"Nhàn"*, Nguyễn Bỉnh Khiêm khắc họa hình ảnh một người ẩn sĩ chủ động rút lui khỏi chốn quan trường ồn ào, tìm về cuộc sống giản dị nơi thôn dã. Cuộc sống ấy gắn liền với lao động tự nhiên (“một mai, một cuốc, một cần câu”), với những thức ăn cây nhà lá vườn (“măng trúc”, “giá”), và những thú vui an nhiên như tắm hồ, uống rượu. Quan trọng hơn cả, ông xem danh lợi là phù du: “Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”. Nhân vật trữ tình ở đây hiện lên như một triết nhân sống thuận theo tự nhiên, lấy nhàn làm vui, lấy thanh bần làm giàu, thể hiện lý tưởng “an bần lạc đạo” của Nho giáo pha lẫn tư tưởng Lão – Trang.
Ngược lại, bài thơ thu của Nguyễn Khuyến không trực tiếp nói về “nhàn” hay “ở ẩn” nhưng lại vẽ nên một bức tranh thu tĩnh lặng, nhuốm màu cô liêu. Người ẩn sĩ nơi đây hiện lên qua hình ảnh thiên nhiên vắng lặng – “cần trúc lơ phơ”, “song thưa”, “nước biếc”, “hoa năm ngoái” – tất cả gợi cảm giác thoát tục, trầm mặc. Ông dường như muốn viết (“nhân hứng cũng vừa toan cất bút”), nhưng rồi lại “thẹn với ông Đào” – một bậc ẩn sĩ nổi tiếng trong văn hóa Trung Hoa. Cảm giác “thẹn” ấy thể hiện sự tự soi mình, cho thấy một tâm thế khiêm nhường, sâu sắc và đầy suy tư trước lý tưởng ẩn dật.
Nếu Nguyễn Bỉnh Khiêm chủ động lựa chọn lối sống ẩn cư để giữ trọn khí tiết, sống an nhiên tự tại thì Nguyễn Khuyến lại thể hiện sự cô đơn, băn khoăn và tự vấn. Một bên là sự dứt khoát, minh triết; bên kia là sự lặng lẽ, sâu kín và nhiều trăn trở. Tuy vậy, cả hai đều gặp nhau ở điểm chung: coi trọng thiên nhiên, xa lánh danh lợi, tìm kiếm sự trong sạch về tinh thần trong một xã hội nhiều biến động.
Qua đó, ta thấy được vẻ đẹp của con người ẩn sĩ trong văn học trung đại – đó không chỉ là người rút lui khỏi cuộc đời mà còn là người mang trong mình một lý tưởng cao cả: giữ gìn nhân cách và sống thuận theo lẽ đạo. Đây là một bài học sâu sắc cho con người hôm nay trong việc lựa chọn giá trị sống và cách đối diện với đời sống xô bồ, thực dụng.
Câu 1 (2.0 điểm): Viết đoạn văn trình bày suy nghĩ về tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường (khoảng 200 chữ)
Môi trường là nền tảng thiết yếu cho sự sống của con người và muôn loài. Việc bảo vệ môi trường không chỉ là trách nhiệm, mà còn là điều kiện để đảm bảo sự phát triển bền vững của xã hội. Trước tình trạng biến đổi khí hậu, ô nhiễm không khí, nguồn nước cạn kiệt và sự tuyệt chủng của nhiều loài sinh vật, chúng ta không thể đứng ngoài cuộc. Nếu môi trường bị tàn phá, sức khỏe thể chất và tinh thần của con người sẽ bị đe dọa nghiêm trọng, thậm chí như văn bản đã đề cập, có thể dẫn đến những tổn thương tâm lý sâu sắc – hiện tượng “tiếc thương sinh thái”. Bảo vệ môi trường là bảo vệ chính chúng ta, bảo vệ tương lai của thế hệ mai sau. Việc làm này cần bắt đầu từ những hành động nhỏ: tiết kiệm điện, trồng cây, hạn chế rác thải nhựa, nâng cao ý thức cộng đồng. Mỗi người đều có vai trò trong hành trình gìn giữ trái đất – ngôi nhà chung của nhân loại.
Câu 2 (4.0 điểm): Viết bài văn nghị luận so sánh hình tượng người ẩn sĩ trong hai bài thơ
Trong văn học trung đại Việt Nam, hình tượng người ẩn sĩ là biểu tượng cho lối sống cao khiết, tách biệt trần thế, hướng đến tự do tinh thần và sự hài hòa với thiên nhiên. Qua hai bài thơ *"Nhàn"* (Nguyễn Bỉnh Khiêm) và bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, hình tượng ẩn sĩ hiện lên với những sắc thái khác nhau nhưng đều thể hiện sâu sắc tâm hồn thanh cao và nhân cách đáng kính.
Trong bài thơ *"Nhàn"*, Nguyễn Bỉnh Khiêm khắc họa hình ảnh một người ẩn sĩ chủ động rút lui khỏi chốn quan trường ồn ào, tìm về cuộc sống giản dị nơi thôn dã. Cuộc sống ấy gắn liền với lao động tự nhiên (“một mai, một cuốc, một cần câu”), với những thức ăn cây nhà lá vườn (“măng trúc”, “giá”), và những thú vui an nhiên như tắm hồ, uống rượu. Quan trọng hơn cả, ông xem danh lợi là phù du: “Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”. Nhân vật trữ tình ở đây hiện lên như một triết nhân sống thuận theo tự nhiên, lấy nhàn làm vui, lấy thanh bần làm giàu, thể hiện lý tưởng “an bần lạc đạo” của Nho giáo pha lẫn tư tưởng Lão – Trang.
Ngược lại, bài thơ thu của Nguyễn Khuyến không trực tiếp nói về “nhàn” hay “ở ẩn” nhưng lại vẽ nên một bức tranh thu tĩnh lặng, nhuốm màu cô liêu. Người ẩn sĩ nơi đây hiện lên qua hình ảnh thiên nhiên vắng lặng – “cần trúc lơ phơ”, “song thưa”, “nước biếc”, “hoa năm ngoái” – tất cả gợi cảm giác thoát tục, trầm mặc. Ông dường như muốn viết (“nhân hứng cũng vừa toan cất bút”), nhưng rồi lại “thẹn với ông Đào” – một bậc ẩn sĩ nổi tiếng trong văn hóa Trung Hoa. Cảm giác “thẹn” ấy thể hiện sự tự soi mình, cho thấy một tâm thế khiêm nhường, sâu sắc và đầy suy tư trước lý tưởng ẩn dật.
Nếu Nguyễn Bỉnh Khiêm chủ động lựa chọn lối sống ẩn cư để giữ trọn khí tiết, sống an nhiên tự tại thì Nguyễn Khuyến lại thể hiện sự cô đơn, băn khoăn và tự vấn. Một bên là sự dứt khoát, minh triết; bên kia là sự lặng lẽ, sâu kín và nhiều trăn trở. Tuy vậy, cả hai đều gặp nhau ở điểm chung: coi trọng thiên nhiên, xa lánh danh lợi, tìm kiếm sự trong sạch về tinh thần trong một xã hội nhiều biến động.
Qua đó, ta thấy được vẻ đẹp của con người ẩn sĩ trong văn học trung đại – đó không chỉ là người rút lui khỏi cuộc đời mà còn là người mang trong mình một lý tưởng cao cả: giữ gìn nhân cách và sống thuận theo lẽ đạo. Đây là một bài học sâu sắc cho con người hôm nay trong việc lựa chọn giá trị sống và cách đối diện với đời sống xô bồ, thực dụng.
Câu 1 (2.0 điểm): Viết đoạn văn trình bày suy nghĩ về tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường (khoảng 200 chữ)
Môi trường là nền tảng thiết yếu cho sự sống của con người và muôn loài. Việc bảo vệ môi trường không chỉ là trách nhiệm, mà còn là điều kiện để đảm bảo sự phát triển bền vững của xã hội. Trước tình trạng biến đổi khí hậu, ô nhiễm không khí, nguồn nước cạn kiệt và sự tuyệt chủng của nhiều loài sinh vật, chúng ta không thể đứng ngoài cuộc. Nếu môi trường bị tàn phá, sức khỏe thể chất và tinh thần của con người sẽ bị đe dọa nghiêm trọng, thậm chí như văn bản đã đề cập, có thể dẫn đến những tổn thương tâm lý sâu sắc – hiện tượng “tiếc thương sinh thái”. Bảo vệ môi trường là bảo vệ chính chúng ta, bảo vệ tương lai của thế hệ mai sau. Việc làm này cần bắt đầu từ những hành động nhỏ: tiết kiệm điện, trồng cây, hạn chế rác thải nhựa, nâng cao ý thức cộng đồng. Mỗi người đều có vai trò trong hành trình gìn giữ trái đất – ngôi nhà chung của nhân loại.
Câu 2 (4.0 điểm): Viết bài văn nghị luận so sánh hình tượng người ẩn sĩ trong hai bài thơ
Trong văn học trung đại Việt Nam, hình tượng người ẩn sĩ là biểu tượng cho lối sống cao khiết, tách biệt trần thế, hướng đến tự do tinh thần và sự hài hòa với thiên nhiên. Qua hai bài thơ *"Nhàn"* (Nguyễn Bỉnh Khiêm) và bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, hình tượng ẩn sĩ hiện lên với những sắc thái khác nhau nhưng đều thể hiện sâu sắc tâm hồn thanh cao và nhân cách đáng kính.
Trong bài thơ *"Nhàn"*, Nguyễn Bỉnh Khiêm khắc họa hình ảnh một người ẩn sĩ chủ động rút lui khỏi chốn quan trường ồn ào, tìm về cuộc sống giản dị nơi thôn dã. Cuộc sống ấy gắn liền với lao động tự nhiên (“một mai, một cuốc, một cần câu”), với những thức ăn cây nhà lá vườn (“măng trúc”, “giá”), và những thú vui an nhiên như tắm hồ, uống rượu. Quan trọng hơn cả, ông xem danh lợi là phù du: “Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”. Nhân vật trữ tình ở đây hiện lên như một triết nhân sống thuận theo tự nhiên, lấy nhàn làm vui, lấy thanh bần làm giàu, thể hiện lý tưởng “an bần lạc đạo” của Nho giáo pha lẫn tư tưởng Lão – Trang.
Ngược lại, bài thơ thu của Nguyễn Khuyến không trực tiếp nói về “nhàn” hay “ở ẩn” nhưng lại vẽ nên một bức tranh thu tĩnh lặng, nhuốm màu cô liêu. Người ẩn sĩ nơi đây hiện lên qua hình ảnh thiên nhiên vắng lặng – “cần trúc lơ phơ”, “song thưa”, “nước biếc”, “hoa năm ngoái” – tất cả gợi cảm giác thoát tục, trầm mặc. Ông dường như muốn viết (“nhân hứng cũng vừa toan cất bút”), nhưng rồi lại “thẹn với ông Đào” – một bậc ẩn sĩ nổi tiếng trong văn hóa Trung Hoa. Cảm giác “thẹn” ấy thể hiện sự tự soi mình, cho thấy một tâm thế khiêm nhường, sâu sắc và đầy suy tư trước lý tưởng ẩn dật.
Nếu Nguyễn Bỉnh Khiêm chủ động lựa chọn lối sống ẩn cư để giữ trọn khí tiết, sống an nhiên tự tại thì Nguyễn Khuyến lại thể hiện sự cô đơn, băn khoăn và tự vấn. Một bên là sự dứt khoát, minh triết; bên kia là sự lặng lẽ, sâu kín và nhiều trăn trở. Tuy vậy, cả hai đều gặp nhau ở điểm chung: coi trọng thiên nhiên, xa lánh danh lợi, tìm kiếm sự trong sạch về tinh thần trong một xã hội nhiều biến động.
Qua đó, ta thấy được vẻ đẹp của con người ẩn sĩ trong văn học trung đại – đó không chỉ là người rút lui khỏi cuộc đời mà còn là người mang trong mình một lý tưởng cao cả: giữ gìn nhân cách và sống thuận theo lẽ đạo. Đây là một bài học sâu sắc cho con người hôm nay trong việc lựa chọn giá trị sống và cách đối diện với đời sống xô bồ, thực dụng.
Câu 1 Theo bài viết, *tiếc thương sinh thái* là nỗi đau khổ trước những mất mát về sinh thái do biến đổi khí hậu gây ra, khiến con người phản ứng tương tự như khi mất người thân.
Câu 2. Bài viết trình bày theo trình tự: nêu hiện tượng – định nghĩa – dẫn chứng cụ thể – phân tích tác động – mở rộng phạm vi ảnh hưởng.
Câu 3. Tác giả sử dụng các nghiên cứu khoa học (Cunsolo và Ellis, Caroline Hickman), trích dẫn lời người Inuit và các cộng đồng bản địa, cùng số liệu khảo sát quốc tế.
Câu 4. Tác giả tiếp cận vấn đề biến đổi khí hậu từ góc nhìn tâm lý – nhân văn, làm nổi bật ảnh hưởng tinh thần sâu sắc mà biến đổi khí hậu gây ra, thay vì chỉ dừng ở khía cạnh môi trường.
Câu 5. Thông điệp sâu sắc nhất là: biến đổi khí hậu không chỉ phá hủy môi trường sống mà còn làm tổn thương nghiêm trọng đến đời sống tinh thần và bản sắc văn hoá của con người.