

Trần Thu Minh
Giới thiệu về bản thân



































Câu 1:Văn bản Chiếu cầu hiền tài của Nguyễn Trãi thể hiện nghệ thuật lập luận sắc sảo, chặt chẽ và giàu sức thuyết phục. Trước hết, ông lập luận theo lối quy nạp – từ thực tiễn lịch sử đến bài học hiện tại, với những dẫn chứng cụ thể về các bậc trung thần thời Hán, Đường đã tiến cử hiền tài để giúp nước thịnh trị. Tiếp đó, ông nêu rõ trách nhiệm của bản thân vua và các quan đại thần, từ đó làm nổi bật tính cấp thiết và chính đáng của việc cầu hiền. Nguyễn Trãi còn sử dụng biện pháp so sánh, đối lập để nhấn mạnh sự cần thiết của hiền tài và khuyến khích cả tiến cử lẫn tự tiến cử. Đặc biệt, ông kết hợp lý lẽ với tình cảm, sử dụng ngôn ngữ trang trọng mà gần gũi, vừa thể hiện sự thành tâm của vua, vừa tạo động lực cho người hiền ra giúp nước. Nhờ nghệ thuật lập luận chặt chẽ, văn bản không chỉ có tính thuyết phục cao mà còn cho thấy tư tưởng tiến bộ và lòng yêu nước sâu sắc của Nguyễn Trãi.
câu 2
Trong thời đại toàn cầu hóa, khi thế giới trở nên phẳng hơn và cơ hội học tập, làm việc rộng mở hơn, một hiện tượng đang ngày càng gây lo ngại tại Việt Nam đó là “chảy máu chất xám” – tình trạng người tài rời bỏ đất nước để tìm kiếm môi trường phát triển tốt hơn ở nước ngoài. Đây không chỉ là một thực trạng đáng suy nghĩ mà còn là một thách thức lớn cho sự phát triển bền vững của quốc gia.
“Chảy máu chất xám” là việc những người có kiến thức, kỹ năng, trình độ chuyên môn cao – như các nhà khoa học, kỹ sư, chuyên gia công nghệ, sinh viên du học… – sau khi đào tạo lại chọn cách làm việc, cống hiến ở nước ngoài thay vì quay trở về quê hương. Điều này dẫn đến sự thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao, ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình phát triển khoa học, công nghệ và kinh tế – xã hội trong nước.
Nguyên nhân của hiện tượng này rất đa dạng. Trước hết, môi trường làm việc ở trong nước còn nhiều bất cập, thiếu tính chuyên nghiệp, chậm đổi mới và không tạo được cơ hội phát huy hết năng lực cho người tài. Bên cạnh đó, chính sách đãi ngộ, lương thưởng còn hạn chế, chưa tương xứng với trình độ và đóng góp của họ. Trong khi đó, các quốc gia phát triển lại có điều kiện học tập, nghiên cứu và đãi ngộ tốt hơn, khiến người tài dễ dàng lựa chọn rời đi. Ngoài ra, tâm lý muốn thử thách, phát triển bản thân ở môi trường quốc tế cũng là một yếu tố tác động mạnh mẽ.
Tuy nhiên, nếu không có những giải pháp kịp thời và chiến lược lâu dài, hiện tượng này sẽ trở thành một vấn đề nghiêm trọng, làm mất đi động lực đổi mới sáng tạo và năng lực cạnh tranh quốc gia. Do đó, để ngăn chặn tình trạng “chảy máu chất xám”, Việt Nam cần có những chính sách cụ thể, thiết thực và mang tầm chiến lược. Trước hết là xây dựng môi trường làm việc chuyên nghiệp, dân chủ và khuyến khích sáng tạo. Thứ hai, tăng cường đầu tư cho nghiên cứu khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo để người tài có điều kiện phát triển. Thứ ba, cải thiện chế độ đãi ngộ và ghi nhận xứng đáng những đóng góp của họ, đồng thời tạo cơ hội thăng tiến công bằng, minh bạch. Ngoài ra, cần xây dựng niềm tự hào dân tộc, ý thức cống hiến cho quê hương trong mỗi người trẻ, để họ có động lực trở về và góp sức xây dựng đất nước.
Tóm lại, “chảy máu chất xám” là một hiện tượng đáng báo động, cần được nhìn nhận nghiêm túc và giải quyết bằng những hành động cụ thể. Giữ chân và thu hút người tài không chỉ là trách nhiệm của nhà nước, mà còn là mệnh lệnh từ tương lai của đất nước. Mỗi người trẻ cũng cần ý thức được rằng, quê hương là nơi cần đến trí tuệ và tâm huyết của mình, để Việt Nam thực sự trở thành một quốc gia phát triển bền vững và vươn tầm thế giới.
Câu 1 (0.5 điểm):
Phương thức biểu đạt chính: Nghị luận.
Câu 2 (0.5 điểm):
Chủ thể bài viết: Nhà vua – Lê Thái Tổ (Lê Lợi).
Câu 3 (1.0 điểm):
Mục đích chính của văn bản:
• Kêu gọi và khuyến khích tiến cử, tìm kiếm và trọng dụng người hiền tài để giúp vua trị quốc, xây dựng đất nước sau chiến tranh.
Đường lối tiến cử hiền tài được đề cập:
• Các quan văn võ từ tam phẩm trở lên phải tiến cử người tài, dù ở triều đình hay thôn quê, đã làm quan hay chưa.
• Cho phép người tài tự tiến cử (tự đề đạt mình).
• Thưởng hậu hĩnh cho người tiến cử đúng người tài đức.
Câu 4 (1.0 điểm):
Dẫn chứng được đưa ra:
• Dẫn các điển tích lịch sử như: Tiêu Hà tiến Tào Tham, Nguy Vô Tri tiến Trần Bình, Địch Nhân Kiệt tiến Trương Cửu Linh, Tiêu Tung tiến Hàn Hưu…
→ Những người hiền tài được tiến cử và đảm đương tốt công việc, góp phần tạo nên thời đại thịnh trị.
Nhận xét cách nêu dẫn chứng:
• Thuyết phục, cụ thể và có tính lịch sử.
• Tăng sức nặng cho lập luận, thể hiện sự hiểu biết sâu rộng và tấm lòng trọng hiền tài của nhà vua.
• Dẫn chứng giàu tính biểu tượng, dễ gây ảnh hưởng đến các quan lại đương thời.
Câu 5 (1.0 điểm):
Phẩm chất của chủ thể bài viết (vua Lê Thái Tổ):
• Tấm lòng trọng hiền đãi sĩ, biết lắng nghe, cầu người hiền giúp nước.
• Ý thức trách nhiệm cao với vận mệnh quốc gia, luôn lo cho dân, cho nước.
• Khiêm tốn, cầu thị, thẳng thắn thừa nhận còn thiếu người tài và mong muốn cải thiện bằng mọi cách.
• Tư tưởng tiến bộ, dân chủ khi chấp nhận cả tự tiến cử, không phân biệt xuất thân.
Câu 1
Trong xã hội hiện đại với tốc độ phát triển nhanh chóng, lối sống chủ động ngày càng trở nên quan trọng và cần thiết. Chủ động không chỉ là tự giác làm việc, học tập, mà còn là biết lập kế hoạch, định hướng cho tương lai và sẵn sàng đón nhận, vượt qua thử thách. Người sống chủ động sẽ không bị động trước hoàn cảnh, không chờ đợi cơ hội mà biết tự tạo ra cơ hội cho chính mình. Đây cũng là yếu tố giúp con người nâng cao giá trị bản thân, làm chủ cuộc đời thay vì bị cuốn theo guồng quay của xã hội. Đặc biệt, trong thời đại công nghệ và cạnh tranh gay gắt như hiện nay, nếu không chủ động, con người dễ bị tụt lại phía sau. Ngược lại, người sống thụ động thường thiếu sáng tạo, dễ phụ thuộc và bỏ lỡ nhiều cơ hội quý báu. Vì vậy, mỗi người cần rèn luyện cho mình lối sống chủ động – từ tư duy đến hành động – để sống hiệu quả hơn, ý nghĩa hơn và thành công hơn trong cuộc sống.
Câu 2
Đoạn thơ trích trong bài 43 của Nguyễn Trãi là một bức tranh thiên nhiên và cuộc sống thanh bình, trù phú nơi thôn dã, đồng thời thể hiện tấm lòng cao đẹp của nhà thơ.
Mở đầu bài thơ, khung cảnh mùa hè hiện lên sống động: “Hoè lục đùn đùn tán rợp trương” gợi tán hoè sum suê, mát rượi; “Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ”, “Hồng liên trì đã tịn mùi hương” là những hình ảnh sinh động, rực rỡ của thiên nhiên, giàu sắc màu và hương vị. Không gian ấy vừa nên thơ, vừa mang sức sống mãnh liệt.
Bức tranh còn vang lên âm thanh sống động của cuộc sống: “Lao xao chợ cá làng ngư phủ”, “Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương” – một bên là âm thanh của lao động mưu sinh, một bên là âm thanh thiên nhiên buổi hoàng hôn, hài hòa giữa con người và thiên nhiên.
Hai câu kết “Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng / Dân giàu đủ khắp đòi phương” thể hiện lý tưởng cao cả của nhà thơ: ước vọng hòa bình, an dân, thái bình thịnh trị.
Qua đó, Nguyễn Trãi không chỉ thể hiện tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống mà còn cho thấy tấm lòng nhân nghĩa, lo cho dân, cho nước – một vẻ đẹp của bậc trí sĩ lớn.
Câu 1
Văn bản trên được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật.
Câu 2
Những hình ảnh nói về nét sinh hoạt hàng ngày đạm bạc, thanh cao của tác giả là:
• “Một mai, một cuốc, một cần câu” (công cụ lao động giản dị)
• “Thu ăn măng trúc, đông ăn giá” (ăn uống thanh đạm, từ thiên nhiên)
• “Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao” (sống gần gũi với thiên nhiên, giản dị)
Câu 3
Biện pháp tu từ liệt kê: “Một mai, một cuốc, một cần câu”
• Tác dụng:
• Nhấn mạnh cuộc sống tự tại, thanh nhàn và gắn bó với thiên nhiên của tác giả.
• Gợi hình ảnh một cuộc sống lao động nhẹ nhàng, thanh tao, không bon chen danh lợi.
• Làm nổi bật lối sống giản dị, thoát tục và tâm hồn ung dung của người ẩn sĩ.
Câu 4
Quan niệm “dại – khôn” của tác giả có điểm đặc biệt và nghịch lý:
• “Ta dại” nhưng lại là người chọn sống ẩn dật, yên bình, tĩnh lặng, hòa hợp với thiên nhiên.
• “Người khôn” lại là người lao vào chốn lao xao – nơi danh lợi, bon chen.
→ Tác giả muốn phê phán lối sống danh lợi, đồng thời ca ngợi sự tỉnh thức, trí tuệ thực sự là biết buông bỏ để sống thanh cao, tự do.
Câu 5
Nguyễn Bỉnh Khiêm hiện lên là một con người có nhân cách thanh cao, sống ẩn dật nhưng không buông xuôi, mà chọn cách sống hòa mình vào thiên nhiên, giữ tâm hồn thanh tịnh. Ông coi thường danh lợi, sống đạm bạc mà an nhiên. Đó là vẻ đẹp của một trí sĩ uyên bác, thấu hiểu lẽ đời, biết thế nào là chân giá trị của cuộc sống. Vẻ đẹp ấy truyền cảm hứng cho bao thế hệ về một lối sống giản dị nhưng sâu sắc.