Giang Yến Nhi

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Giang Yến Nhi
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

Câu 2

Sau khi dẹp xong giặc và loạn lạc ở miền Bắc, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế và giao cho Ngô Thì Nhậm soạn Chiếu Cầu Hiền nhằm thu phục người tài ra giúp dân giúp nước. Bài chiều thể hiện tấm lòng vì dân vì nước của vua Quang Trung, đặc biệt cho thấy tầm nhìn xa trông rộng của một nhà lãnh đạo kiệt xuất.

    Để viết được những tác phẩm chiếu, yêu cầu người viết phải am hiểu sâu sắc hoàn cảnh lịch sử xã hội, nắm được những đòi hỏi của đất nước lúc bấy giờ để qua đó tập hợp lại sức lực vì vận mệnh quốc gia. Đối với Ngô Thì Nhậm, ngoài những yêu cầu trên ông còn là một người sắc sảo trong nghệ thuật thuyết phục. Có thể nói bài Chiếu cầu hiền đã thể hiện một tài năng xuất sắc của tác giả vì cách lập luận chặt chẽ, lời lẽ rõ ràng, tao nhã.

    Mở đầu tác phẩm, tác giả đã dẫn lời của Khổng Tử nhằm tạo dấu ấn mạnh đối với các nho sĩ:

    "Từng nghe: Người hiền ở trên đời cũng như sao sáng trên trời. Sao tất phải chầu về Bắc thần (ý này của Khổng Tử trong sách Luận ngữ), người hiền tất phải do thiên tử sử dụng".

    Đoạn mở đầu muốn khẳng định người hiền tài là những tài sản quí giá của đất nước, giống "như sao sáng trên trời", mà người tài tất phải ra giúp vua trị nước mới xứng với "ý trời" đã sinh ra. Cách so sánh đầy sáng tạo của tác giả đã làm tăng thêm ý nghĩa thuyết phục của bài Chiều. Hình ảnh "sao sáng trên trời" tượng trưng cho sự tinh anh, khiến nhà vua rất lấy làm trân trọng.

    Sang đoạn tiếp theo, tác giả lại đưa ra những khó khăn trong việc thu phục người tài ra giúp nước. Điều đó làm trăn trở nhà vua vì phí hoài nhân tài một cách vô ích đó. "Trước đây, thời gấp vận dụng, trung châu lắm việc, người hiền ở ẩn, cố giữ tiết tháo như da bò bền, người ở triều đường không dám nói năng như hàng trượng mã. Cũng có người đánh mõ giữ cửa, ra bể vào sông, chết đuối trên cạn mà không tự biết, chỉ lo trốn tránh, hầu đến trọn đời". Nhà vua có ý muốn trách những người tài của đất nước. Nếu trong cảnh chiến sự thì việc quốc sự còn nhiều nhưng nay đất nước đã thái bình, nhà vua cần có sự hợp sức của nhân tài để quốc gia được phồn vinh, thịnh vượng hơn. Thế mà người hiền thì ở ẩn hoặc cố ý giữ lấy khí tiết của mình mà không để ý đến việc quốc gia đại sự. Hoặc có những người cũng ra giúp vua nhưng không tận tâm trong công việc. Tác giả viết: "Cũng có người giữ cửa, ra bể vào sông, chết đuối trên cạn mà không tự biết". Đây là cách phê phán nhẹ nhàng và tế nghị nhưng ẩn ở phía sau là những hàm ý rất thâm thúy.

    Việc tập hợp người hiền tài giúp nước là công việc gấp gáp và quan trọng hơn lúc nào hết. Vì vậy, nhà vua luôn "sớm hôm mong mỏi".

    Vua Quang Trung không chỉ làm phận sự của một vị tướng tài là dẹp giặc, trừ bạo mà còn lo toan đến đời sống của người dân. Trong thực tế lịch sử sau khi đất nước đã hòa bình, yên ổn thì "dân khổ chưa hồi sức" nên đặt ra nhiều vấn đề lớn để ổn định và phát triển triều đại. "Dân khổ chưa hồi sức, đức hóa chưa thấm nhuần, trẫm chăm chăm run sợ, mỗi ngày muôn việc lo toan. Nghĩ rằng: sức một ngày không chổng nổi tòa nhà to, mưu lược của kẻ thù sẽ không dựng được thái bình". Đoạn vă chứa đựng tấm lòng nhà vua vì sự bình an dân chúng và sự phồn vinh nước nhà. Những lời văn chan chứa tâm huyết của vua Quang Trung cho thấy vua không lúc nào không nghĩ đến cuộc sống của người dân và lo toan cho quốc gia đại sự. Tấm lòng đó quả là rộng lớn và quý báu của một vị vua suốt đời dâng hiến cho dân tộc. Có một nhà vua với những lí tưởng cao đẹp như thế đất nước sẽ luôn được thái bình, dân chúng sẽ luôn được hưởng ấm no hạnh phúc.

    Đoạn thứ ba của bài chiếu cho thấy thầm nhìn xa trông rộng của vua Quang Trung là xuất chúng, thể hiện rõ tình yêu nước thương dân nồng nàn của một nhà lãnh đạo tài ba. Để hợp sức dân lại xây dựng cơ nghiệp đất nước, nhà vua không loại trừ một tầng lớp xã hội nào, miễn là công dân trong nước có tài và đức đủ để gánh vác chuyện quốc gia đều được lựa chọn vào trong triều giúp vua gây dựng đất nước. "Vậy ban chiếu xuống, quan việc lớn nhỏ và dân chúng trăm họ ai có tài năng học thuật, mưu hay giúp ích cho đời, đều cho phép được dâng thư bày tỏ công việc".

    Có thể nói ở đây, tính dân chủ đã được hình thành và phát huy cao độ. Điều đó nói lên tính cấp thiết của đất nước trong việc trọng dụn người tài vào nắm giữ các chức vụ khác nhau trong triều đình mới.

    Trong lịch sử ít có một nhà vua nào đề cao tối đa tính dân chủ trong việc tuyển dụng nhân tài giúp nước như vua Quang Trung. Cách nhìn xa trông rộng đó chứng tỏ nhà vua là người am hiểu quy luật phát triển của lịch sử, đã thấy được tương lai sau này của đất nước. Sự tiên tri đó nói lên tài phán đoán, tiên tri của một vị vua anh minh đối với quốc gia, dân tộc, bởi vì trong sâu thẳm tấm lòng nhà vua luôn nung nấu một khát vọng làm sao cho dân no ấm, hạnh phúc, đất nước giàu mạnh. Đó cũng chính là mơ ước của người dân nhằm canh tân nước nhà.

    Bài Chiếu cầu hiền là tấm lòng của vua Quang Trung đối với dân với nước, tấm lòng đó là niềm mong muốn được cống hiến vì sự phồn vinh của nước nhà mà vua Quang Trung đã từng nung nấu. Qua bài chiếu này ta có thể thấy, tài nhìn xa trông rộng của nhà vua anh minh Quang Trun và tình yêu nước nồng nàn của một vị vua kiệt xuất.

    Quang Trung xứng đáng đi vào lịch sử như một nhân vật tài ba nhất trong lịch sử trung đại nước nhà.
 
Câu 2

Để xây dựng một xã hội như hiện tại, con người đã dành rất nhiều công sức và tri thức của mình để làm phong phú và phát triển nó. Tuy nhiên, một hiện tượng đáng tiếc hiện nay chính là tình trạng mất mát tri thức, hay còn gọi là "chảy máu chất xám." Khái niệm này ẩn dụ tình hình người tài và trí thức Việt Nam đang có xu hướng di cư và làm việc cho lợi ích của các quốc gia nước ngoài thay vì đóng góp cho đất nước của họ. Ngoài ra, chảy máu chất xám còn ám chỉ việc ý tưởng và sáng kiến của con người bị sao chép và lan truyền một cách rộng rãi trên thị trường mà không có sự kiểm soát về chất lượng.

Một hiện thực buồn nữa là nhiều người tài năng sau khi du học ở nước ngoài quyết định định cư tại đó và đóng góp cho đất nước của họ, trong khi đất nước Việt Nam đang cần "hít thở" những tài năng đó. Một ví dụ điển hình là chương trình Đường lên đỉnh Olympia, trong đó đa số các quán quân sau khi du học ở nước ngoài đều chọn ở lại đó và làm việc.

Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là do ý thức cá nhân, mong muốn sống trong môi trường tốt hơn, tiện nghi hơn, và đôi khi quên đi nguồn gốc của họ. Nguyên nhân khách quan bao gồm cơ sở vật chất nước nhà chưa đủ để đáp ứng nhu cầu làm việc và nghiên cứu của con người, cũng như chế độ đãi ngộ chưa tương xứng với công sức của họ.

Để khắc phục tình trạng này, mọi người cần nhận thức đúng đắn, sẵn sàng đóng góp cho đất nước, và hãy bỏ qua lợi ích cá nhân. Nhà nước cũng cần áp dụng các biện pháp đặc biệt để thu hút nhân tài về nước, đầu tư vào cơ sở hạ tầng và trả công xứng đáng cho họ. Mỗi người có thể đóng góp bằng những hành động nhỏ, nhưng chúng ta cần thấu hiểu giá trị to lớn của việc sống và đóng góp cho một đất nước giàu đẹp và văn minh hơn.
 

Câu 1

Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong bài là nghị luận

Câu 2

Chủ thể bài viết là vua Lê Lợi

Câu 3

Mục đích chính của văn bản :Kêu gọi việc tiến cử và tự tiến cử người hiền tài để giúp vua Lê Lợi xây dựng đất nước. 
Những đường lối tiến cử người hiền tài được đề cập trong văn bản
- Các văn võ đại thần, công hầu, đại phu từ tam phẩm trở lên đều phải cử người có tài, bất kể là ở triều đình hay thôn dã, đã xuất sĩ hay chưa.
 - Người có tài kinh luân mà bị khuất hoặc hào kiệt náu mình nơi làng quê, binh lính cũng có thể tự tiến cử.
 - Những người tiến cử được hiền tài sẽ được thưởng, tùy theo tài năng của người được tiến cử

Câu 4

Dẫn chứng minh chứng cho luận điểm: Người viết nêu ra những tấm gương điển hình từ thời Hán và Đường: - Tiêu Hà tiến cử Tào Tham, Nguy Vô Tri tiến cử Trần Bình. - Địch Nhân Kiệt tiến cử Trương Cửu Linh, Tiêu Tung tiến cử Hàn Hưu.
Nhận xét về cách nêu dẫn chứng
 - Các dẫn chứng được chọn lọc kỹ lưỡng, có tính điển hình cao và phù hợp với bối cảnh nghị luận. - Tác giả không chỉ kể tên mà còn nhấn mạnh vai trò của việc tiến cử trong sự thành công của các triều đại, từ đó tăng tính thuyết phục.

Câu 5

Nhận xét về phẩm chất của chủ thể bài viết: 
- Có trách nhiệm: Vua Lê Lợi tự nhận trách nhiệm nặng nề trong việc trị quốc và luôn mong muốn tìm người tài giúp sức. 
- Khiêm tốn và cầu thị
: Ông không câu nệ tiểu tiết, sẵn sàng chấp nhận cả những người tự tiến cử.
 - Sáng suốt và công bằng: Đưa ra chính sách thưởng phạt rõ ràng trong việc tiến cử hiền tài, dựa trên tài năng và đức độ.
 - Quan tâm đến hiền tài: Hiểu rõ vai trò quan trọng của nhân tài trong việc xây dựng đất nước và sẵn lòng trọng dụng người tài từ mọi tầng lớp.

 

Câu 1

Cuộc sống của chúng ta, chúng ta nên tự giác hoạch định, không nên dựa dẫm hay ỷ lại vào ai. Có thể thấy, việc sống ở thế chủ động có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với con người. Sống ở thế chủ động là việc mỗi người luôn biết làm chủ cuộc sống của mình, đề ra mục tiêu và thực hiện chúng một cách hoàn thiện, không để người khác phải nhắc nhở những công việc liên quan đến bản thân mình. Sống ở thế chủ động có ý nghĩa to lớn đối với cuộc sống con người, nó làm cho con người năng động hơn, sáng tạo hơn, giúp ích rất nhiều cho cuộc sống. Mỗi con người chỉ được sống một lần, chúng ta cần sống có ước mơ, biết vươn lên để thực hiện mục tiêu mà bản thân mình đề ra trước hết tạo của cải vật chất để nuôi sống bản thân, sau để cống hiến cho xã hội. Người sống ở thế chủ động sẽ lường trước đực những khó khăn cũng như thuận lợi của cuộc sống, từ đó biết nắm bắt mọi cơ hội tốt hơn người sống ở thế bị động. Trong cuộc sống, mỗi con người ai cũng sẽ có lúc gặp phải khó khăn, gian khổ, trắc trở. Nếu chúng ta không ngừng hi vọng về một tương lai tươi sáng hơn, một cuộc sống tốt đẹp hơn ở phía trước, chúng ta sẽ có động lực để cố gắng vươn lên, vượt qua khó khăn ở thực tại. Người sống ở thế chủ động sẽ được mọi người yêu quý, tín nhiệm, tin tưởng và học tập theo, từ đó truyền được nguồn cảm hứng, những thông điệp tốt đẹp đến với mọi người, tạo ra một xã hội tốt đẹp hơn. Tuy nhiên trong xã hội vẫn còn có nhiều người sống ở thế bị động, không có mục tiêu, không biết lường trước cuộc sống, khi có chuyện không may xảy đến không biết ứng phó. Lại có những người sống ỷ lại, dựa dẫm vào người khác mà không cố gắng trong cuộc sống của chính mình,… những người này đáng chỉ trích. Mỗi người chỉ được sống một lần duy nhất, chúng ta hãy sống, tự làm chủ cuộc sống của mình, hướng đến những điều tốt đẹp để cuộc sống thêm ý nghĩa hơn.

Câu 2

Bài thơ "Bảo kính cảnh giới" – Bài 43 của Nguyễn Trãi đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên và cuộc sống bình yên nơi làng quê Việt Nam. Ngay từ những câu đầu, hình ảnh thiên nhiên được miêu tả sống động: “Hoè lục đùn đùn tán rợp trương”, “Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ”, “Hồng liên trì đã tịn mùi hương”. Những gam màu xanh mát của cây hoè, sắc đỏ rực của thạch lựu, hương thơm dịu nhẹ của hoa sen không chỉ gợi lên cảnh sắc tươi đẹp mà còn thể hiện sự hài hòa giữa con người với thiên nhiên.
 
Bên cạnh thiên nhiên, tác giả còn khắc họa nhịp sống bình yên nơi thôn dã qua những âm thanh lao xao của “chợ cá làng ngư phủ”, tiếng ve râm ran trong buổi chiều tà. Không gian ấy gợi lên một cuộc sống giản dị nhưng đầm ấm, tràn đầy sức sống.
 
Hai câu kết  “Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng 
Dân giàu đủ khắp đòi phương”          Thể hiện mong ước của Nguyễn Trãi về một cuộc sống thái bình, nơi nhân dân được ấm no, hạnh phúc. Hình ảnh "Ngu cầm" gợi nhớ đến điển tích vua Nghiêu, vua Thuấn – những vị minh quân thời xưa – cho thấy tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước thương dân của Nguyễn Trãi.
 
Bài thơ không chỉ là bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp mà còn phản ánh tâm hồn cao đẹp của tác giả – một con người luôn hướng đến cuộc sống thanh cao, giản dị và mong muốn đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Qua đó, bài thơ gửi gắm thông điệp về sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên, đồng thời thể hiện khát vọng về một xã hội an bình, thịnh vượng.

 

 

 

Câu 1

Văn bản trên được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật.

 

Câu 2 

Những hình ảnh nói về nét sinh hoạt hàng ngày đạm bạc, thanh cao của tác giả:

 

"Một mai, một cuốc, một cần câu": Gợi lên cuộc sống lao động giản dị, gần gũi với thiên nhiên.

"Thu ăn măng trúc, đông ăn giá / Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao": Chỉ những bữa ăn đạm bạc với sản vật tự nhiên và nếp sống hài hòa với thiên nhiên, không cầu kỳ, xa hoa.

Câu 3 

Biện pháp tu từ liệt kê: "Một mai, một cuốc, một cần câu"

 

Việc liệt kê ba vật dụng gắn với lao động (mai, cuốc, cần câu) nhấn mạnh lối sống giản dị, tự cung tự cấp của tác giả.

Thể hiện tâm thế ung dung, an nhiên, không màng đến danh lợi.

Câu 4 

Quan niệm “dại – khôn” của tác giả có sự đối lập đặc biệt:

 

“Ta dại” nhưng lại tìm nơi vắng vẻ → cho thấy “dại” ở đây là tự nguyện rời xa chốn quan trường, danh lợi.

“Người khôn” nhưng lại đến chốn lao xao → “khôn” nhưng thực chất là bị cuốn vào vòng danh lợi, tranh đua nơi quan trường.

Nguyễn Bỉnh Khiêm dùng cách nói ngược để thể hiện quan điểm sống: từ bỏ danh lợi không phải là dại, mà chính là sự sáng suốt, minh triết.

Câu 5

Bài thơ thể hiện vẻ đẹp nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm – một con người thoát tục, thanh cao, sống hòa hợp với thiên nhiên. Ông coi phú quý như một giấc chiêm bao, chọn cuộc sống bình dị thay vì lao vào chốn quan trường đầy thị phi. Quan niệm “dại – khôn” trong bài thơ cho thấy trí tuệ uyên thâm và thái độ ung dung, tự tại của một bậc hiền triết. Nhân cách ấy không chỉ thể hiện sự thanh cao mà còn mang tính triết lý sâu sắc về cuộc đời.