

NGUYỄN ANH QUÂN
Giới thiệu về bản thân



































Bài thơ "Chân quê" của Nguyễn Bính thể hiện sự lo lắng và nỗi buồn của tác giả trước sự thay đổi của những giá trị truyền thống ở nông thôn khi xã hội ngày càng hiện đại hóa. Thông điệp chính của bài thơ: * Sự trân trọng và nỗi tiếc nuối vẻ đẹp chân quê: Bài thơ khắc họa hình ảnh một chàng trai buồn bã khi nhận thấy sự thay đổi ở người yêu sau khi cô về từ tỉnh. Những trang phục "khăn nhung quần lĩnh rộn ràng" đã thay thế cho vẻ đẹp mộc mạc, giản dị trước đây. Chàng trai tha thiết mong người yêu giữ gìn nét quê mùa, những điều thân thuộc như "hôm em đi lễ chùa". * Nỗi lo sợ về sự mai một của bản sắc văn hóa: Sự thay đổi của người yêu cũng là hình ảnh ẩn dụ cho sự xâm nhập của lối sống thành thị, làm phai nhạt đi những giá trị văn hóa truyền thống, "hương đồng gió nội". * Lời nhắn nhủ về việc giữ gìn cội nguồn: Câu thơ "Thầy u mình với chúng mình chân quê" như một lời khẳng định về những giá trị bền vững của quê hương, nơi con người thuộc về và cần trân trọng. Hình ảnh "hoa chanh nở giữa vườn chanh" gợi ý về sự hài hòa, tự nhiên và ý thức về nguồn cội.
Biện pháp tu từ được sử dụng trong câu thơ "Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều" là ẩn dụ. Phân tích tác dụng: * "Hương đồng gió nội" vốn là những hình ảnh gợi lên vẻ đẹp mộc mạc, chân chất, bình dị của làng quê. Nó tượng trưng cho những giá trị văn hóa truyền thống, những nét đẹp tâm hồn thuần phác.
Các loại trang phục được liệt kê trong bài thơ: Bài thơ nhắc đến hai nhóm trang phục đối lập: * Trang phục truyền thống, mộc mạc của thôn quê: * Yếm lụa sồi * Dây lưng đũi nhuộm hồi sang xuân * Áo tứ thân * Khăn mỏ quạ * Quần nái đen * Trang phục tân thời, có phần xa lạ với thôn quê: * Khăn nhung * Quần lĩnh * Áo cài khuy bấm Ý nghĩa của các loại trang phục: * Nhóm trang phục truyền thống: Những trang phục như yếm lụa sồi, áo tứ thân, khăn mỏ quạ, quần nái đen gợi lên hình ảnh người con gái thôn quê dịu dàng, chân chất, mộc mạc và đằm thắm. Chúng là biểu tượng cho vẻ đẹp truyền thống, những giá trị văn hóa lâu đời của làng quê Việt Nam. Việc tác giả trân trọng và liệt kê những trang phục này thể hiện sự yêu mến, gắn bó sâu sắc với quê hương và những nét đẹp văn hóa truyền thống. * Nhóm trang phục tân thời: Khăn nhung, quần lĩnh, áo cài khuy bấm lại là những trang phục mang hơi hướng thành thị, có vẻ xa lạ với khung cảnh làng quê yên bình. Sự thay đổi trong trang phục của người em đã khiến cho "tôi" cảm thấy hụt hẫng, lo lắng về sự đánh mất những nét đẹp chân quê vốn có. Những trang phục này dường như đại diện cho sự thay đổi, có thể là sự phai nhạt của những giá trị truyền thống dưới tác động của cuộc sống hiện đại. Tóm lại, việc liệt kê hai nhóm trang phục đối lập trong bài thơ "Chân quê" không chỉ đơn thuần miêu tả sự thay đổi trong cách ăn mặc mà còn thể hiện sự tiếc nuối, nỗi lo lắng của tác giả trước nguy cơ mai một của những giá trị văn hóa truyền thống, đồng thời thể hiện tình yêu sâu sắc đối với vẻ đẹp mộc mạc, bình dị của quê hương.
"Chân quê" gợi cho em những liên tưởng và cảm nhận về vẻ đẹp mộc mạc, giản dị của làng quê Việt Nam. Hai tiếng "chân quê" như một lời khẳng định về những giá trị truyền thống, những nét đẹp bình dị, chân chất vốn có của quê hương. Em hình dung ra hình ảnh những con người sống gắn bó với ruộng đồng, với những phong tục tập quán lâu đời. Đó là những trang phục quen thuộc như yếm lụa sồi, áo tứ thân, khăn mỏ quạ, quần nái đen. Đó là những khung cảnh thân thương như con đê đầu làng, vườn chanh với hoa chanh nở trắng, hương đồng gió nội. Bài thơ gợi cho em cảm nhận về một tình yêu quê hương sâu sắc, một nỗi lo lắng khi những nét đẹp truyền thống có nguy cơ bị mai một trước những thay đổi của cuộc sống hiện đại. Đồng thời, qua đó em cũng thấy được sự trân trọng, niềm mong mỏi giữ gìn những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
Lục bát