PHẠM HỒNG NHUNG

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của PHẠM HỒNG NHUNG
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

Blended learning is a way of studying a subject which combines learning over the Internet and face-to-face learning. It brings several benefits to us. First, blended learning helps us have more control over our own learning. This is because learning materials are available online at all times. Therefore, students who are absent from school won’t miss the lessons. Second, students can develop better communication and teamwork skills. This is because we can use different ways to communicate in class. As a result, we have more time for pair work and group work. Finally, it’s easier to access lesson materials. For example, students can store and read texts from the Internet. In conclusion, blended learning can keep us engaged and help us learn useful skills.

Câu 1: 

Trong hành trình trưởng thành, ai rồi cũng sẽ đôi lần vấp ngã giữa dòng đời, bởi “Bí mật của cuộc sống là ngã bảy lần và đứng dậy tám lần” (Trích “Nhà giả kim” của Paul Coelho). “Ngã bảy lần” là ẩn dụ cho những lần thất bại, tổn thương, những cú trượt dài khiến người ta hoài nghi cả chính mình. Nhưng “đứng dậy tám lần” mới chính là bản lĩnh, là khát vọng sống mãnh liệt, là lời tuyên bố thầm lặng nhưng kiêu hãnh: ta chưa bao giờ gục ngã trước khó khăn. Ai trong cuộc sống mà không một lần bối rối trước lựa chọn, yếu lòng vì nỗi đau? Như Walt Disney – người bị từ chối bởi chính những giấc mơ của mình – vẫn tiếp tục xây dựng một thế giới cổ tích đầy màu sắc, điều đó đã trở thành sức mạnh, truyền cảm hứng cho hàng triệu trái tim. Những lần vấp ngã, tưởng chừng như dấu chấm hết lại là những cột mốc vô hình, là nền tảng vững chắc cho tương lai. Chính trong những khoảnh khắc ấy, bản lĩnh con người được tôi luyện, trở nên mạnh mẽ và kiên cường hơn bao giờ hết. Mỗi vấp ngã không chỉ là một bài học, mà còn là điểm tựa vững chãi, là bệ phóng giúp ta bay cao, vượt qua chính mình. Nó kích thích sự sáng tạo, thôi thúc ta vượt lên vùng an toàn, khám phá chân trời mới, mở ra cánh cửa vô hạn cho sự phát triển và hoàn thiện bản thân. Dù vậy, việc đứng dậy sau vấp ngã không có nghĩa là lặp lại sai lầm, mà là để bước đi vững vàng và khôn ngoan hơn. Thành công không dành cho kẻ chưa từng thất bại, mà dành cho những ai dám ngẩng cao đầu và không bỏ cuộc, để rồi ngày mai, khi thức dậy, ta thầm cảm ơn chính mình vì đã sống một cuộc đời trọn vẹn như thế.


Câu 2:

Những trang sách viết lên từ cõi lòng rung động, những bài thơ ngân nga xuyên ái hồn người, chúng là gì mà lại có sức ám ảnh người đọc đến thế ? Là ngôn từ, là nghệ thuật hay chăng chính là cách mà nhà văn truyền tải sau những đêm không ngủ, sau những ánh mắt rực cháy và thổn thức ngập lòng. Bài thơ “Bảo kính cảnh giới”(Bài 33) của Nguyễn Trãi chính là đứa con tinh thần được ấp ủ và nâng niu như thế. Đến với thi phẩm, ta không khỏi xúc động trước những tầng nội dung, nghệ thuật được thi nhân khéo léo ươm mầm và gửi gắm.

Nguyễn Trãi được mệnh danh là danh nhân văn hóa thế giới, bậc đại thần khai quốc triều Hậu Lê và là nhà chính trị, quân sự, văn học xuất sắc của dân tộc. Nổi bật trong sự nghiệp sáng tác của ông là bài thơ “Bảo kính cảnh giới”(bài 33) trích “Quốc âm thi tập”, được chắp bút trong khoảng thời gian ông lui về ở ẩn. Thi phẩm là tiếng lòng sâu lắng, không chỉ phác hoạ rõ nét tâm hồn cao khiết của Nguyễn Trãi mà còn gửi gắm một quan niệm sống nhân văn đầy bản lĩnh.

Ngay từ những câu thơ đầu tiên, Nguyễn Trãi đã khắc hoạ hoàn cảnh và quan điểm sống của mình:

“Rộng khơi ngại vượt bể triều quan,

Lui tới đòi thì miễn phận an.”

Ông lựa chọn từ bỏ danh lợi, không phải vì ông không đủ tài giỏi mà vì ông nhận thức rõ hơn ai hết về những hiểm nguy, thách thức trong cõi quan trường. Hình ảnh ẩn dụ “bể triều quan” mở ra không gian rộng lớn, đầy sóng gió, chênh vênh, khiến người ta dễ dàng lạc hướng rồi bị cuốn vào vòng xoáy của quyền lực, danh vọng. Nhưng Nguyễn Trãi, thay vì chấp nhận hoà vào dòng chảy ấy lại chọn một con đường khác, một con đường đi ngược lại với sự bon chen thường nhật - đi theo sự an nhiên, tự tại, theo tiếng gọi của lòng mình. “Phận an” ở đây không phải sự thụ động mà là sự tự chủ vững vàng, quyết định, lựa chọn sống theo đúng bản chất của bản thân. Sự đối lập giữa “bể triều quan” và “phận an” càng làm nổi bật tinh thần tự tại, không vướng mắc vào những lôi kéo vật chất hay quyền lực tầm thường.

Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi không chỉ là cảnh vật xung quanh mà còn là nơi hòa hợp tuyệt vời giữa con người và vũ trụ:

“Hé cửa đêm chờ hương quế lọt,

Quét hiên ngày lệ bóng hoa tan.”

Câu thơ đã khéo léo tái hiện một không gian thơ mộng, đầy chất thiền. Mùi hương quế thoảng qua khe cửa đêm và bóng hoa dần tan trong ánh nắng sáng sớm không chỉ là những hình ảnh tự nhiên mà còn là những biểu tượng cho sự tĩnh lặng, thanh thoát trong tâm hồn. Trong khoảnh khắc ấy, Nguyễn Trãi không đơn giản chỉ đang “ẩn dật”, mà đang sống hòa mình với thiên nhiên, để trong cái tĩnh lặng ấy, tâm hồn được tự do và thanh thản. Nghệ thuật tương phản trong việc mô tả ngày - đêm đã làm nổi bật sự chuyển động nhẹ nhàng của thiên nhiên, như một minh chứng cho sự vĩnh cửu của những giá trị tinh thần, trong khi những xô bồ của cuộc sống thường nhật chỉ là cái thoáng qua.

Mặc dù không được trọng dụng như người khác, Nguyễn Trãi vẫn giữ vững lý tưởng sống của mình. Ông viết:

“Đời dùng người có tài Y, Phó,

Nhà ngặt, ta bền đạo Khổng, Nhan.”

Đây chính là lời khẳng định đầy bản lĩnh của một trí thức không bị gò bó bởi hoàn cảnh, không bị lệ thuộc bởi sự trọng dụng của xã hội. Dù đối diện với nghịch cảnh tàn nhẫn, song, ông vẫn giữ vững đạo lý của mình, sống theo lý tưởng của Khổng Tử và Nhan Hồi – những bậc thánh hiền đã sống vì nhân nghĩa. Hình ảnh “đời dùng” đối lập với “nhà ngặt” đã thể hiện vô cùng rõ ràng sự kiên định của Nguyễn Trãi trước những khó khăn. Ông luôn khắc ghi trong thân tâm phải giữ vững phẩm hạnh, cốt cách của mình.

Cuối cùng, câu thơ kết trong bài thơ như một dấu chấm phá đầy dư ba về triết lý sống của Nguyễn Trãi:

“Kham hạ hiền xưa toan lẩn được,

Ngâm câu: “danh lợi bất như nhàn”.”

Ở đây, ông khẳng định rằng danh lợi chỉ là những thứ phù du, không đáng để theo đuổi, sự an nhàn, thanh tĩnh mới là giá trị bền vững trong cuộc đời. “Ngâm câu” là sự chiêm nghiệm của tác giả về cuộc sống, về cái đẹp của sự tự do, không bị ràng buộc bởi những lôi kéo của quyền lực hay vật chất. Chữ “nhàn” khép lại toàn bài chính là sự đúc kết sâu sắc của một đời từng trải: nhàn thân, nhàn tâm - để giữ gìn phẩm hạnh và nhân cách trong sạch, thanh cao trong một thế giới đầy biến động này.

Bài thơ không chỉ giàu tính triết lý mà còn là một tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh với ngôn từ giản dị nhưng đầy hàm ý, hình ảnh thơ phong phú, giàu tính biểu tượng, cấu trúc đối ngữ chặt chẽ, các thủ pháp nghệ thuật, thể thơ thất ngôn bát cú đường luật,… Qua đó, làm nổi bật lên bức chân dung tinh thần ung dung, tự tại của một vị Nho sĩ chân chính, nặng lòng vì nước vì dân.

Thi phẩm “Bảo kính cảnh giới” (Bài 33) chính là bản tuyên ngôn mạnh mẽ về tư tưởng và nhân cách của con người Nguyễn Trãi. Qua từng câu chữ, ông như mời gọi bạn đọc tìm về sự an nhiên trong cuộc sống, để giữ vững phẩm giá và lý tưởng giữa những biến động của cuộc đời. Có thể nói, bài thơ không chỉ là viên ngọc quý của kho tàng văn học mà còn là ngọn đuốc soi sáng cho những ai đang tìm kiếm giá trị sống đích thực, mở ra những trang mới - rực rỡ và đẹp đẽ hơn bao giờ hết của cuộc đời người.

Câu 1:

Văn bản trên thuộc kiểu văn bản thông tin (cung cấp thông tin khoa học).


Câu 2:

Phương thức biểu đạt chính: thuyết minh.


Câu 3:

Nhan đề “Phát hiện 4 hành tinh trong hệ sao láng giềng của Trái Đất” hay, ngắn gọn, rõ ràng, mang tính thông báo, cuốn hút. Nó vừa khái quát nội dung chính của văn bản, vừa gợi sự tò mò về 4 hành tinh, tạo sự gần gũi về những “hệ sao láng giềng” gần Trái Đất, gây chú ý và ấn tượng nơi người đọc,


Câu 4:

Văn bản đã sử dụng phương tiện phi ngôn ngữ là hình ảnh mô phỏng sao Barnard và các hành tinh của nó. Tác dụng:

+ Giúp thông tin trong văn bản trở nên cụ thể, trực quan, sinh động, hấp dẫn.

+ Thể hiện mối quan hệ logic chặt chẽ giữa các thông tin.

+ Người đọc dễ dàng hình dung được cấu trúc, vị trí và hình dạng của hệ sao Barnard cùng các hành tinh.


Câu 5:

Văn bản có tính chính xác và khách quan cao. Thông tin được kiểm chứng từ nhiều nguồn đáng tin cậy như Đài thiên văn Gemini (ở Hawaii, Mỹ), Kính Viễn vọng Cực lớn VLT (ở Chile), Đại học Chicago (Mỹ), và được đăng tải trên chuyên san The Astrophysical Journal Letters (số tháng 3.2024). Văn bản dẫn lời của nghiên cứu sinh Ritvik Basant – tác giả báo cáo khoa học – cùng nhiều số liệu cụ thể, chi tiết. Tác giả không đưa ra nhận định chủ quan mà trình bày thông tin một cách trung lập. Sử dụng ngôn ngữ khoa học, khách quan, câu văn rõ ràng, đơn nghĩa. Điều đó thể hiện trách nhiệm và sự nghiêm túc trong việc cung cấp tri thức đáng tin cậy cho người đọc.