

LÊ TRÚC LINH
Giới thiệu về bản thân



































Câu 1
Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong bài là: Nghị luận (chiếu - văn bản nghị luận chính luận).
Câu 2
Chủ thể bài viết là: Vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) – người ban chiếu.
Câu 3
Kêu gọi và khuyến khích các quan lại và sĩ phu trong dân gian tiến cử hoặc tự tiến cử người hiền tài để phục vụ đất nước.
Đường lối tiến cử người hiền tài được đề cập trong văn bản gồm:
Quan lại từ tam phẩm trở lên phải tiến cử người hiền tài.
Người hiền có thể được phát hiện từ triều đình đến thôn dã, không phân biệt xuất thân.
Người tài có thể tự đề đạt, không cần phải chờ người tiến cử.
Người tiến cử đúng sẽ được trọng thưởng.
Câu 4
- Tác giả nêu các ví dụ lịch sử về việc tiến cử người hiền ở thời Hán – Đường:
- Tiêu Hà tiến cử Tào Tham
- Nguy Vô Tri tiến Trần Bình
- Địch Nhân Kiệt tiến Trương Cửu Linh
- Tiêu Tung tiến Hàn Hưu
→ Dẫn chứng đều là những ví dụ tiêu biểu cho thấy việc đất nước hưng thịnh nhờ biết dùng người tài.
Dẫn chứng phong phú, xác thực, chọn từ các giai đoạn lịch sử nổi bật của Trung Quốc – nơi mà các bậc quân vương biết trọng dụng hiền tài, từ đó làm nổi bật vai trò của người hiền trong xây dựng đất nước, tăng tính thuyết phục cho lập luận của bài chiếu.
Câu 5
Vua là người có tư tưởng tiến bộ, biết trọng dụng nhân tài và coi việc tìm kiếm người hiền là việc quan trọng hàng đầu trong công cuộc trị quốc. Đồng thời, ông cũng thể hiện là một người khiêm tốn, cầu thị, lo cho vận mệnh quốc gia, biết lắng nghe và sẵn sàng mở rộng cơ hội cho người tài khắp nơi, kể cả tự tiến cử.
Câu 1
Văn bản trên được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật.
Câu 2
Những hình ảnh nói về nét sinh hoạt hàng ngày đạm bạc, thanh cao của tác giả là:
“Một mai, một cuốc, một cần câu”
“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá”
“Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”
Những hình ảnh này thể hiện lối sống giản dị, gần gũi với thiên nhiên và thanh đạm của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Câu 3
Biện pháp tu từ liệt kê được sử dụng trong câu thơ:
“Một mai, một cuốc, một cần câu”
Tác dụng: Nhấn mạnh những vật dụng gắn liền với đời sống lao động giản dị, đạm bạc của tác giả; từ đó cho thấy niềm vui và sự thanh thản trong cuộc sống nơi thôn dã.
Câu tiếp theo “Thơ thẩn dầu ai vui thú nào” thể hiện thái độ ung dung, thảnh thơi, không màng đến những thú vui trần tục hay sự ồn ào ngoài xã hội.
Câu 4
Quan niệm dại – khôn trong hai câu thơ:
“Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao xao”
→ Đây là cách nói nghịch lý, đối lập để thể hiện quan điểm sống riêng của tác giả. Theo lẽ thường, "khôn" là người biết bon chen, giành lấy danh lợi; "dại" là người lánh đời, không màng danh vọng. Tuy nhiên, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tự nhận mình “dại” – rút lui khỏi vòng danh lợi, tìm về nơi vắng vẻ, thanh tĩnh, sống hoà mình với thiên nhiên. Thực chất, đó lại là cái “khôn” đích thực của người hiểu đời, sống an nhiên và có nhân cách lớn.
Câu 5
Qua bài thơ “Nhàn”, có thể thấy Nguyễn Bỉnh Khiêm là một con người có nhân cách thanh cao, thoát tục. Ông lựa chọn lối sống ẩn dật nơi thôn dã, hòa mình vào thiên nhiên, tránh xa vòng danh lợi, bon chen của chốn quan trường. Lối sống của ông tuy giản dị, đạm bạc nhưng lại rất tự do, thanh thản và đầy chất triết lý. Đó là vẻ đẹp của một trí thức am hiểu thời thế, sống thuận theo đạo lý và giữ trọn khí tiết của một bậc hiền nhân.
Câu 1
Văn bản trên được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật.
Câu 2
Những hình ảnh nói về nét sinh hoạt hàng ngày đạm bạc, thanh cao của tác giả là:
“Một mai, một cuốc, một cần câu”
“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá”
“Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”
Những hình ảnh này thể hiện lối sống giản dị, gần gũi với thiên nhiên và thanh đạm của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Câu 3
Biện pháp tu từ liệt kê được sử dụng trong câu thơ:
“Một mai, một cuốc, một cần câu”
Tác dụng: Nhấn mạnh những vật dụng gắn liền với đời sống lao động giản dị, đạm bạc của tác giả; từ đó cho thấy niềm vui và sự thanh thản trong cuộc sống nơi thôn dã.
Câu tiếp theo “Thơ thẩn dầu ai vui thú nào” thể hiện thái độ ung dung, thảnh thơi, không màng đến những thú vui trần tục hay sự ồn ào ngoài xã hội.
Câu 4
Quan niệm dại – khôn trong hai câu thơ:
“Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao xao”
→ Đây là cách nói nghịch lý, đối lập để thể hiện quan điểm sống riêng của tác giả. Theo lẽ thường, "khôn" là người biết bon chen, giành lấy danh lợi; "dại" là người lánh đời, không màng danh vọng. Tuy nhiên, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tự nhận mình “dại” – rút lui khỏi vòng danh lợi, tìm về nơi vắng vẻ, thanh tĩnh, sống hoà mình với thiên nhiên. Thực chất, đó lại là cái “khôn” đích thực của người hiểu đời, sống an nhiên và có nhân cách lớn.
Câu 5
Qua bài thơ “Nhàn”, có thể thấy Nguyễn Bỉnh Khiêm là một con người có nhân cách thanh cao, thoát tục. Ông lựa chọn lối sống ẩn dật nơi thôn dã, hòa mình vào thiên nhiên, tránh xa vòng danh lợi, bon chen của chốn quan trường. Lối sống của ông tuy giản dị, đạm bạc nhưng lại rất tự do, thanh thản và đầy chất triết lý. Đó là vẻ đẹp của một trí thức am hiểu thời thế, sống thuận theo đạo lý và giữ trọn khí tiết của một bậc hiền nhân.