Trần Ngô Tuấn Cường

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Trần Ngô Tuấn Cường
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

a. Những hạn chế về điều kiện tự nhiên đối với phát triển kinh tế - xã hội của vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL): Ngập lụt và triều cường: Vùng thường xuyên bị ngập lụt vào mùa mưa và ảnh hưởng bởi triều cường, gây khó khăn cho sản xuất nông nghiệp và đời sống dân cư. Hạn hán và xâm nhập mặn: Do địa hình thấp và chịu ảnh hưởng từ biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn diễn ra sâu vào nội đồng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn nước ngọt phục vụ sản xuất và sinh hoạt. Địa hình thấp, bằng phẳng: Tuy thuận lợi cho việc canh tác nông nghiệp, nhưng cũng khiến khu vực dễ bị ngập úng và khó tiêu thoát nước. Thiếu nước ngọt vào mùa khô: Mùa khô kéo dài, lượng nước từ sông Mekong về giảm, làm trầm trọng tình trạng thiếu nước. Sạt lở bờ sông, bờ biển: Diễn biến ngày càng nghiêm trọng, ảnh hưởng đến hạ tầng giao thông, đất sản xuất và đời sống dân cư. b. Biện pháp thích ứng với biến đổi khí hậu ở vùng ĐBSCL: Phát triển nông nghiệp thông minh: Chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện hạn, mặn (ví dụ: lúa chịu mặn, nuôi tôm - lúa kết hợp). Xây dựng và nâng cấp hệ thống thủy lợi: Kiểm soát mặn, trữ ngọt, điều tiết nước hợp lý phục vụ sản xuất và sinh hoạt. Phục hồi và bảo vệ rừng ngập mặn, rừng phòng hộ ven biển: Giúp giảm thiểu tác động của triều cường, xâm nhập mặn và bảo vệ bờ biển khỏi xói lở. Di dời dân cư khỏi vùng có nguy cơ cao: Đảm bảo an toàn tính mạng và tài sản, đồng thời quy hoạch lại dân cư hợp lý. Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng công nghệ: Cảnh báo sớm thiên tai, sử dụng giống cây trồng và vật nuôi thích nghi với khí hậu khắc nghiệt. Tuyên truyền nâng cao nhận thức cộng đồng: Giúp người dân chủ động thích nghi với tình hình mới, thay đổi thói quen sản xuất và sinh hoạt

Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 9/1975) đã đề ra nhiệm vụ thống nhất đất nước về mặt Nhà nước vì những lý do sau: 1.Yêu cầu tất yếu của lịch sử: Sau Đại thắng mùa Xuân 1975, đất nước ta hoàn toàn thống nhất về mặt lãnh thổ, nhưng vẫn tồn tại hai chính quyền riêng biệt ở hai miền Nam - Bắc (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam). 2.Việc thống nhất về mặt Nhà nước là điều kiện quan trọng để củng cố thành quả của cuộc kháng chiến chống Mỹ, khẳng định chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ. Bảo đảm sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Đảng và Nhà nước: Một bộ máy Nhà nước thống nhất sẽ giúp điều hành đất nước hiệu quả hơn, thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng và an ninh. Tạo điều kiện thuận lợi cho Đảng thực hiện các chính sách xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước. 3.Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc: Thống nhất đất nước về mặt Nhà nước giúp nhân dân cả nước có chung một chính quyền, một hệ thống pháp luật, tăng cường sự gắn kết giữa các vùng miền. Khắc phục những khác biệt về cơ chế quản lý, kinh tế và xã hội giữa hai miền. 4.Tạo điều kiện cho công cuộc tái thiết và phát triển kinh tế-xã hội: Sau chiến tranh, miền Nam gặp nhiều khó khăn, cần có sự điều hành thống nhất từ Trung ương để nhanh chóng khôi phục và phát triển kinh tế. Thống nhất về mặt Nhà nước giúp quy hoạch và phân bổ nguồn lực hợp lý giữa các vùng miền, phát triển đất nước theo hướng chung. 5.Củng cố vị thế quốc tế của Việt Nam: Một quốc gia thống nhất về mặt Nhà nước sẽ có vị thế vững chắc trên trường quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi trong quan hệ đối ngoại, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. 6.Khẳng định với thế giới rằng Việt Nam là một quốc gia độc lập, thống nhất, không thể chia cắt.

Từ năm 1991 đến nay, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đã có những bước phát triển quan trọng về mặt thành viên, mở rộng tổ chức từ 6 nước ban đầu lên thành 10 nước. Dưới đây là quá trình phát triển thành viên của ASEAN trong giai đoạn này: Năm 1995: Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN vào ngày 28/7/1995, trở thành thành viên thứ 7 của tổ chức. Việc Việt Nam gia nhập đánh dấu bước khởi đầu cho quá trình mở rộng ASEAN ra toàn bộ khu vực Đông Nam Á. Năm 1997: Lào và Myanmar cùng gia nhập ASEAN vào ngày 23/7/1997, nâng tổng số thành viên lên 9 nước. Sự gia nhập của hai quốc gia này thể hiện xu hướng hội nhập khu vực và tăng cường hợp tác giữa các quốc gia Đông Nam Á. Năm 1999: Campuchia trở thành thành viên thứ 10 của ASEAN vào ngày 30/4/1999. Với sự gia nhập của Campuchia, ASEAN đã hoàn tất việc kết nạp tất cả 10 quốc gia Đông Nam Á, hướng tới mục tiêu xây dựng một cộng đồng khu vực thống nhất và ổn định. Tóm lại: Từ năm 1991 đến nay, ASEAN đã mở rộng từ 6 lên 10 quốc gia thành viên. Cụ thể: 1995: Việt Nam 1997: Lào, Myanmar 1999: Campuchia Sự mở rộng này đã góp phần quan trọng trong việc xây dựng Cộng đồng ASEAN với ba trụ cột: Chính trị - An ninh, Kinh tế và Văn hóa - Xã hội, nhằm thúc đẩy hòa bình, ổn định và phát triển bền vững trong khu vực.

- Tình hình kinh tế: + Từ năm 1991 đến nay, nền kinh tế Nhật Bản vẫn chưa thoát trì trệ, xen lẫn giữa suy thoái tăng trưởng yếu ớt. + Tuy nhiên, Nhật Bản vẫn là một trong những tâm kinh tế-tài chính lớn thế giới. + Năm 2010, vị thế nền kinh tế lớn thứ hai thế giới xác lập trong hơn bốn thập kỉ của Nhật Bản đã bị Trung Quốc vượt qua. - Tình hình xã hội: + Nhật Bản là quốc gia có chất cuộc sống cao với hệ thống tế, chăm sóc sức khoẻ đảm bảo toàn diện. + Nhật Bản vẫn là quốc gia có thu nhập bình quân đầu người cao, đạt hơn 39.000 USD; chỉ số phát triển con người (HDI) ở mức rất cao, đứng thứ 7 thế giới, tuổi thọ trung bình thuộc nhóm nước cao nhất thế giới (85 tuổi).

-Ý tưởng về xây dựng Cộng đồng ASEAN khởi nguồn ngay từ Tuyên bố Bangkok, thể hiện qua mục tiêu “xây dựng một cộng đồng thịnh vượng và hòa bình ở Đông Nam Á”. Ý tưởng tiếp tục được thể hiện ở các văn kiện định hướng quan trọng tiếp theo của Hiệp hội. ASEAN trải qua hơn 30 năm (1967-1997) để xác định được mục tiêu xây dựng Cộng đồng, đánh dấu bằng sự ra đời văn kiện Tầm nhìn ASEAN năm 2020. ASEAN cũng cần hơn 10 năm (1997-2007) để hoàn tất mô hình và cách thức hoạt động của Cộng đồng, chính thức hoá bằng sự ra đời của Tuyên bố Bali II và Hiến chương ASEAN tạo nền tảng pháp lý cho Hiệp hội. ASEAN mất thêm 2 năm nữa (2007-2009) để xác định được lộ trình cụ thể đầu tiên về xây dựng Cộng đồng, với việc thông qua Lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN (2009-2015). Ban đầu, ASEAN dự kiến thành lập Cộng đồng vào năm 2020. Tuy nhiên, tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 13, tháng 1/2007, ASEAN đã rút ngắn thời hạn xây dựng Cộng đồng vào năm 2015.

- Mục tiêu tổng quát của ASEAN là: xây dựng tổ chức này trở thành một cộng đồng gắn kết về chính trị, liên kết về kinh tế, chia sẻ trách nhiệm xã hội và hợp tác rộng mở với bên ngoài, hoạt động theo luật lệ và hướng tới người dân. - Để xây dựng Cộng đồng ASEAN, tháng 1-2009, các nhà lãnh đạo ASEAN đã thông qua Lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN (2009-2015) cùng các kế hoạch triển khai với nhiều biện pháp và hoạt động cụ thể. - Trụ cột của cộng đồng ASEAN: + Cộng đồng chính trị-an ninh (APSC): Tạo dựng môi trường hoà bình và an ninh ở khu vực, nâng hợp tác chính trị-an ninh ASEAN lên tầm cao mới + Cộng đồng kinh tế (AEC): Tạo ra một thị trường duy nhất, có sức cạnh tranh cao, phát triển đồng đều và hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế toàn cầu + Cộng đồng văn hóa-xã hội (ASCC): Nâng cao chất lượng cuộc sống, thúc đẩy bình đẳng, công bằng, phát triển bền vững, tăng cường ý thức cộng đồng và bản sắc chung - Ý nghĩa: + Sự ra đời của Cộng đồng ASEAN là kết quả hợp tác ASEAN trong gần 50 năm, phản ánh mức độ liên kết của ASEAN ngày càng cao, chặt chẽ hơn và có vai trò quan trọng ở khu vực. + Tuy nhiên, Cộng đồng vẫn là sự “thống nhất trong đa dạng” vì vẫn còn sự khác biệt khá lớn giữa các nước thành viên.


- Nhà nước Việt Nam qua các thời kì lịch sử có những hoạt động đấu tranh kiên quyết nhằm bảo vệ, thực thi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. +) Trước năm 1884: + Từ thời chúa Nguyễn, Vương triều Tây Sơn, các đội Hoàng Sa, Bắc Hải có nhiệm vụ tuần tiễu giữ gìn vùng biển, ứng chiến với nạn cướp biển và những xâm phạm tại quần đảo Hoàng Sa,.. + Dưới triều Nguyễn, các đội thuỷ quân chuyên trách công việc bảo vệ, thực thi chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa được tổ chức. +) Từ năm 1884 đến năm 1954: + Năm 1939, chính quyền thực dân Pháp gửi công hàm phản đối việc Nhật Bản kiểm soát một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa. + Năm 1946, chính quyền thực dân Pháp cho hải quân trú đóng ở các đảo chính thuộc quần đảo Trường Sa và yêu cầu quân đội Trung Hoa Dân quốc rút khỏi các đảo đã chiếm đóng trái phép. +)Từ năm 1954 đến năm 1975: + Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam ra tuyên bố khẳng định chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ là những vấn đề thiêng liêng và bất khả xâm phạm. + Tháng 1/1974, quân đội Sài Gòn thất bại trong chiến đấu bảo vệ quần đảo Hoàng Sa trước cuộc tấn công của quân đội Trung Quốc. +) từ 1975 đến nay + Tháng 3/1988, nhiều chiến sĩ Hải quân Nhân dân Việt Nam đã hi sinh anh dũng khi chiến đấu bảo vệ chủ quyền tại các đảo Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao trước cuộc tấn công của quân đội Trung Quốc. + Từ tháng 3/1988 đến nay, nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam kiên trì đấu tranh ngoại giao và pháp lí để khẳng định, bảo vệ chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và môi trường hoà bình, hợp tác trên Biển Đông.

- Nhà nước Việt Nam qua các thời kì lịch sử có những hoạt động đấu tranh kiên quyết nhằm bảo vệ, thực thi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. +) Trước năm 1884: + Từ thời chúa Nguyễn, Vương triều Tây Sơn, các đội Hoàng Sa, Bắc Hải có nhiệm vụ tuần tiễu giữ gìn vùng biển, ứng chiến với nạn cướp biển và những xâm phạm tại quần đảo Hoàng Sa,.. + Dưới triều Nguyễn, các đội thuỷ quân chuyên trách công việc bảo vệ, thực thi chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa được tổ chức. +) Từ năm 1884 đến năm 1954: + Năm 1939, chính quyền thực dân Pháp gửi công hàm phản đối việc Nhật Bản kiểm soát một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa. + Năm 1946, chính quyền thực dân Pháp cho hải quân trú đóng ở các đảo chính thuộc quần đảo Trường Sa và yêu cầu quân đội Trung Hoa Dân quốc rút khỏi các đảo đã chiếm đóng trái phép. +)Từ năm 1954 đến năm 1975: + Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam ra tuyên bố khẳng định chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ là những vấn đề thiêng liêng và bất khả xâm phạm. + Tháng 1/1974, quân đội Sài Gòn thất bại trong chiến đấu bảo vệ quần đảo Hoàng Sa trước cuộc tấn công của quân đội Trung Quốc. +) từ 1975 đến nay + Tháng 3/1988, nhiều chiến sĩ Hải quân Nhân dân Việt Nam đã hi sinh anh dũng khi chiến đấu bảo vệ chủ quyền tại các đảo Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao trước cuộc tấn công của quân đội Trung Quốc. + Từ tháng 3/1988 đến nay, nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam kiên trì đấu tranh ngoại giao và pháp lí để khẳng định, bảo vệ chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và môi trường hoà bình, hợp tác trên Biển Đông.