Nguyễn Minh Khánh

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Nguyễn Minh Khánh
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

Bài văn phân tích truyện ngắn "Làng" của Kim Lân

Trong kho tàng văn học Việt Nam hiện đại, truyện ngắn “Làng” của Kim Lân là một tác phẩm tiêu biểu phản ánh sâu sắc tình yêu quê hương và tinh thần kháng chiến của người nông dân trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Tác phẩm xoay quanh nhân vật ông Hai – một người nông dân chất phác, yêu làng, yêu nước bằng một tình cảm chân thành và sâu sắc.

Ông Hai là hiện thân của người nông dân Việt Nam thời kỳ kháng chiến: giản dị, chân thật, yêu quê hương một cách thiết tha. Khi phải tản cư, điều khiến ông buồn nhất không phải là cuộc sống vất vả nơi đất khách mà là nỗi nhớ làng – nơi ông gắn bó cả đời. Tình yêu làng của ông gắn liền với niềm tự hào khi thấy làng mình theo cách mạng, đóng góp vào kháng chiến. Nhưng khi nghe tin làng mình theo Tây, ông đau khổ, dằn vặt và xấu hổ. Ông tránh giao tiếp, không dám ngẩng đầu lên, thậm chí còn định xin quay về làng. Tuy nhiên, tình yêu nước của ông đã lớn hơn tình yêu làng khi ông dứt khoát: "Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây thì phải thù." Đó là một sự chuyển biến đầy ý nghĩa trong nhận thức của người nông dân, từ yêu làng đến yêu nước, biết đặt lợi ích dân tộc lên trên tình cảm riêng tư.

Bằng lối kể chuyện giản dị, ngôn ngữ mộc mạc nhưng giàu cảm xúc, Kim Lân đã khắc họa thành công một nhân vật sống động, gần gũi. Qua đó, tác phẩm thể hiện một thông điệp sâu sắc: lòng yêu nước không chỉ tồn tại ở chiến trường mà còn bắt đầu từ những điều bình dị nhất – từ một tấm lòng gắn bó với quê hương.

“Làng” không chỉ là câu chuyện về một người nông dân mà còn là bản anh hùng ca nhỏ về hàng triệu con người Việt Nam đã đặt nghĩa lớn lên trên tình riêng trong những năm tháng chiến tranh gian khổ.

Đoạn thơ thể hiện tinh thần dũng cảm và lý tưởng sống cao đẹp của thế hệ thanh niên thời chiến. Dù tuổi hai mươi là quãng đời tươi đẹp nhất, ai cũng có quyền tiếc nuối, nhưng họ đã gác lại tình riêng, sẵn sàng hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Câu hỏi tu từ cuối bài như một lời thức tỉnh, khẳng định rằng nếu ai cũng chỉ biết giữ gìn tuổi trẻ cho riêng mình thì đất nước sẽ không còn hy vọng. Đó là lời nhắc nhở sâu sắc về trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với vận mệnh dân tộc. Đọc đoạn thơ, em cảm phục và biết ơn những con người đã sống và chiến đấu hết mình cho Tổ quốc.

Trong đoạn thơ trên, thành phần biệt lập là:

(Những tuổi hai mươi làm sao không tiếc)

Thành phần này bộc lộ cảm xúc chân thực, day dứt của người nói trước sự hy sinh của tuổi trẻ. Nó góp phần giải thích và nhấn mạnh thêm cho câu thơ trước – rằng dù không tiếc đời mình, nhưng cảm giác tiếc nuối tuổi trẻ là điều rất tự nhiên. Tuy nhiên, điều đáng trân trọng là họ vẫn chọn hy sinh vì Tổ quốc, dù biết tuổi hai mươi là quý giá.

Khánh Hoài là một nhà văn giàu tình yêu thương với trẻ em. Một trong những tác phẩm tiêu biểu đó là truyện ngắn “Cuộc chia tay của những con búp bê”. Từ cuộc chia tay xúc động của hai anh em Thành và Thủy, tác giả đã gửi gắm một bài học ý nghĩa trong cuộc sống.

Câu chuyện kể về một gia đình có hai anh em là Thành và Thủy. Nhưng vì bố mẹ ly hôn nên hai anh em không thể tiếp tục sống với nhau được nữa. Khánh Hoài đã xây dựng một tình huống đặc biệt để cho thấy tình cảm sâu sắc của Thành và Thủy. Người mẹ yêu cầu hai anh em phải đem đồ chơi ra chia. Nghe thấy tiếng mẹ nói chia đồ chơi mà Thủy không kìm nổi nỗi sợ hãi “bất giác run lên bần bật, kinh hoàng”. Còn Thành thì thầm nghĩ: “Cảnh vật vẫn cứ như hôm qua, hôm kia thôi mà sao tai họa giáng xuống đầu anh em tôi nặng nề thế này”. Đối mặt với cuộc chia tay, Thành và Thủy đều cảm thấy buồn bã và thật nặng nề. Nhưng điều đó không làm tình cảm của cả hai mất đi. Đến tận bây giờ, hai anh em vẫn nhường nhịn và dành những điều tốt nhất cho nhau, thật đáng trân trọng. Thành dành hầu hết số đồ chơi cho em: bộ tú lơ khơ, bàn cá ngựa, những con ốc biển và bộ chỉ màu và ngay cả hai con búp bê là Em Nhỏ và Vệ Sĩ. Khi hai anh em về đến nhà thì đã nhìn thấy một chiếc xe tải đỗ trước cổng, cuộc chia tay quá đột ngột khiến cả hai bàng hoàng. Thủy chạy vào nhà lấy con Vệ Sĩ đưa cho Thành để nó gác cho anh ngủ. Nhưng sau đó, cô bé lại đem cả con Em Nhỏ lại cho anh và bắt anh hứa không bao giờ để chúng phải xa nhau nữa.

Sau khi chia đồ chơi, Thành đưa em đến trường tạm biệt thầy cô và bạn bè. Khung cảnh ngôi trường hôm nay sao mà thân thương đến vậy. Cô tặng cho Thủy một quyển sổ và một chiếc bút mực nhưng Thủy không dám nhận vì không còn được đi học nữa. Sau khi từ trường về nhà, Thành và Thủy nhìn thấy một chiếc xe tải đỗ trước cổng, cuộc chia tay quá đột ngột khiến cả hai bàng hoàng. Thủy chạy vào nhà lấy con Vệ Sĩ đưa cho Thành để nó gác cho anh ngủ. Nhưng sau đó, cô bé lại đem cả con Em Nhỏ lại cho anh và bắt anh hứa không bao giờ để chúng phải xa nhau nữa. Dường như đó cũng chính là mong muốn của Thủy. Em mong rằng mình và anh trai sẽ không phải xa cách nhau nữa. Cuộc chia tay diễn ra đẫm nước mắt, buồn bã và đau thương. Cả hai anh em đều sẽ không biết bao giờ mới có thể gặp lại nhau.

Cuộc chia tay của những con búp bê đã gợi cho người lớn bao suy nghĩ về trách nhiệm của mình, về việc gìn giữ mái ấm hạnh phúc để cho con cái được vui vẻ, trọn vẹn yêu thương.

Play 00:00 00:12 01:31 Mute
  • Đoạn thơ trên trích trong bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên miêu tả tâm trạng ông đồ thời suy tàn. 
  • Bằng các biện pháp nghệ thuật đối lập, tả cảnh ngụ tình để thể hiện niềm cảm thương trước hình ảnh ông đồ lạc lõng, trơ trọi “vẫn ngồi đấy” như bất động, lẻ loi và cô đơn khi người qua đường thờ ơ vô tình không ai nhận thấy hoặc đoái hoài tới sự tồn tại của ông.
  • Qua hai câu thơ tả cảnh ngụ tình tuyệt bút, hiểu được nỗi buồn của con người thấm sâu vào cảnh vật. Hình ảnh “lá vàng, mưa bụi” giàu giá trị tạo hình vẽ nên một bức tranh xuân lặng lẽ, âm thầm, tàn tạ với gam màu nhạt nhòa, xám xịt. 
  • Khổ thơ cực tả cái cảnh thê lương của nghề viết và sự ám ảnh ngày tàn của nền nho học đồng thời thể hiện sự đồng cảm xót thương của nhà thơ trước số phận những nhà nho và một nền văn hóa bị lãng quên. 

Câu thơ "Ta hoá phù sa mỗi bến chờ" thể hiện ý nghĩa cao đẹp về sự cống hiến và hi sinh âm thầm nhưng bền bỉ, giống như phù sa luôn nuôi dưỡng và làm giàu cho đất.