Nguyễn Như Quỳnh
Giới thiệu về bản thân
Tình cảm giữa mẹ và con là một chủ đề phổ biến trong thơ ca. Trong số đó, bài thơ Đợi mẹ của Vũ Quần Phương đã gợi lên nhiều cảm xúc trong người đọc.
Hình ảnh của nhân vật "em bé" trong bài thơ Đợi mẹ đã quá quen thuộc với mọi người. Chắc hẳn, khi còn nhỏ, ai cũng đã từng ngồi đợi mẹ đi chợ, đi làm về. Cảm giác mong ngóng, thấp thỏm khi phải chờ đợi có lẽ đã quá quen thuộc với mỗi người. Tác giả đã tạo dựng không gian, thời gian một cách rõ ràng trong bài thơ. Trời đã tối, vạn vật đều nghỉ ngơi sau một ngày dài. Nhân vật "em bé" ngồi nhìn ra cánh đồng lúa xa xôi, chờ đợi bóng dáng mẹ. Tuy nhiên, mẹ vẫn chưa về.
Trong bài thơ, em bé nhìn thấy vầng trăng treo cao trên bầu trời nhưng không thấy mẹ. Có vẻ như mẹ vẫn đang làm việc trên cánh đồng bên ngoài. Hình ảnh người mẹ tần tảo, lam lũ trong bóng tối, gợi lên nhiều nỗi day dứt và tiếc nuối. Bởi vì cuộc sống mưu sinh, người mẹ phải vất vả làm việc. Chưa có mẹ về, nên bếp chưa được đun lửa. Chưa có mẹ về, nên cửa nhà trống trải. Bóng tối tràn về mang theo những nỗi sợ mơ hồ trong tâm trí của em bé. Vì vậy, niềm mong mỏi đón chân mẹ trở về càng trở nên đau đớn hơn. Nhưng bước chân ấy vẫn đang "ì oạp" trên cánh đồng. Từ "ì oạp" đặc biệt đã gợi lên những bước chân mỏi mệt của người mẹ.
Khi mẹ trở về, em bé đã ngủ nhưng vẫn chờ mong mẹ. Hình ảnh “mẹ bế vào nhà nỗi đợi vẫn nằm mơ” rất đặc biệt, tôn vinh tình cảm yêu thương và gắn bó. Tác giả sử dụng từ ngữ giản dị, tự nhiên và giàu sức gợi, không quá dài dòng, tạo nên cảm xúc nhẹ nhàng, sâu sắc trong lòng người đọc. Bài thơ "Đợi mẹ" đã gợi lên nhiều cảm xúc tuyệt vời và giúp chúng ta hiểu hơn về tình mẫu tử thiêng liêng.
Một trong những bài thơ hay viết về tình mẫu tử có thể kể đến “Mây và sóng” của Ta-go. Nhân vật trữ tình của bài thơ là một em bé. Em đang kể lại cho mẹ nghe về cuộc trò chuyện của mình với người “trên mây” và “trong sóng”. Bởi vậy, bài thơ mang giọng điệu hồn nhiên, vui tươi. Những câu thơ đã thể hiện điều đó như: “Mẹ ơi, trên mây có người gọi con”, “Trong sóng có người gọi con”. Với em bé, thế giới của người “trên mây” và “trong sóng” mang vẻ kì diệu, rất hấp dẫn. Ở đó, các bạn sẽ được dạo chơi từ lúc thức dậy cho đến lúc hoàng hôn, được khám phá những điều kỳ thú trên bầu trời, hay dưới mặt biển. Bởi vậy, em bé rất tò mò, mong được trải nghiệm: “Nhưng làm thế nào mình lên đó được?”, “Nhưng làm thế nào mình ra ngoài đó được?”. Câu hỏi trên giúp chúng ta hiểu được khao khát khám phá của trẻ thơ. Dù ham chơi, thích khám phá nhưng khi nghe câu trả lời của người “trên mây” hay “trong sóng”, em bé đã kiên quyết từ chối: “Làm sao có thể rời mẹ mà đến được?”, “Làm sao có thể rời mẹ mà đi được?”. Có thể thấy, tình cảm yêu thương của em bé dành cho người mẹ, cũng như mong muốn luôn ở bên mẹ của em bé thật rõ ràng. Và rồi, chính em bé đã nghĩ ra một trò chơi thật kì diệu có thể thực hiện cùng với mẹ. Dù ở bất cứ nơi đâu, em bé vẫn muốn ở cùng với mẹ. Bài thơ được viết theo kiểu thơ tự sự, không bị ràng buộc bởi luật thơ, cách gieo vần. Âm điệu nhịp nhàng, hình ảnh giàu tính biểu tượng, ngôn ngữ cô động đã góp phần khiến cho bài thơ giàu cảm xúc hơn. Bài thơ đã giúp người đọc cảm nhận được tình cảm mẫu tử chân thành, giản dị mà đẹp đẽ đến chừng nào. Mây và sóng chính là một trong những bài thơ mà tôi cảm thấy yêu thích.
Bài thơ "Mẹ và quả" của Nguyễn Khoa Điềm là một tác phẩm vô cùng ý nghĩa. Với những hình ảnh vô cùng giản dị, thân thuộc cùng giọng điệu tha thiết, nhẹ nhàng, tác giả đã đem đến cho chúng ta những thông điệp đầy xúc động về tình mẫu tử. Nhân vật chính của tác phẩm là người mẹ - một người phụ nữ tần tảo, chịu thương chịu khó, luôn hết mình để nuôi các con khôn lớn, trưởng thành. Hình ảnh mẹ hiện lên gắn liền với "những mùa quả" nối tiếp nhau, cứ "lặn" rồi lại "mọc" như Mặt Trăng, Mặt Trời. Điều đó khiến ta liên tưởng tới sự chảy trôi vô tận, phũ phàng của thời gian. Nó khiến cho những đứa con "lớn lên", những quả bầu, quả bí "lớn xuống", đồng thời cũng phủ một lớp sương trắng xóa lên mái tóc mẹ. Bờ vai mẹ đã gồng gánh cả một gia đình suốt bao năm qua, nhưng bà không cần bất cứ điều gì cho riêng bản thân mình. Ước mong lớn lao nhất của mẹ "Bảy mươi tuổi đợi chờ được hái" chính là sự khôn lớn, trưởng thành của các con. Nhắc đến đây, nội tâm nhân vật trữ tình bắt đầu hoảng sợ thời gian sẽ cướp đi đấng sinh thành, hoảng hốt vì không biết liệu đến khi "bàn tay mẹ mỏi" thì mình đã "chín" chưa hay vẫn chỉ là "một thứ quả non xanh". Với bổn phận và tấm lòng biết ơn, chủ thể trữ tình luôn mong muốn được báo đáp người mẹ đáng kính. Chắc chắn, ai trong chúng ta cũng đều có thể đồng cảm và thấu hiểu cho cảm xúc đó. Tình cảm dạt dào, sự hi sinh cao cả mà không cần hồi đáp của người mẹ đã khiến độc giả vô cùng xúc động. Qua đây, ta lại càng cảm nhận được sự thiêng liêng của tình mẫu tử, thêm biết ơn về những gì mà gia đình đem đến.
Bài làm. Truyện ngắn Cô bé bán diêm của nhà văn An-đéc-xen đã để lại những dư âm, ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Không chỉ vậy đó còn là niềm cảm thương vô hạn cho số phận bất hạnh, đầy bi thương của nhà văn với cô bé bán diêm.
Hoàn cảnh của cô bé vô cùng thương cảm, ngay từ những lời đầu tiên giới thiệu về hoàn cảnh của cô bé đã khiến người đọc phải rơi nước mắt: bà và mẹ những người yêu thương em nhất đều đã qua đời, em sống chui rúc với bố trong một căn gác tối tăm, chật chội. Người bố có lẽ vì cuộc sống nghèo túng, khó khăn nên đâm ra khó tính, đối xử tệ bạc với em: hay mắng nhiếc, chửi rủa em. Trong đêm đông giá rét em phải mang những phong diêm đi bán để kiếm sống nuôi bản thân. Mặc dù có nhà song em không dám về vì nếu về mà không mang được đồng xu nào tất sẽ bị cha em mắng chửi. Người cha vô lương tâm, lời lẽ hành động thiếu tình thương đã khiến cô bé bất hạnh phải ở bên ngoài trong đêm đông giá lạnh, trong gió và mưa tuyết mỗi lúc một nhiều.
Xót thương biết bao trong ngày cuối cùng của năm ai ai cũng được quay quần bên gia đình còn cô bé thì đầu trần, chân đất lang thang ngoài trời đông giá rét, tuyết phủ trắng xóa. Xung quanh em đường phố, nhà cửa đã lên đèn, không gian thật ấm cúng, hạnh phúc, mùi ngỗng sực nức khắp nơi, còn em đã đi cả ngày mà không bán được bao diêm nào. Những hình ảnh tương phản không chỉ làm nổi bật thiếu thốn, khó khăn về vật chất của em mà còn nói đến những mất mát, thiếu thốn về mặt tinh thần.
Trong cái giá rét của mùa đông, cô bé liều mình quẹt từng que diêm để sưởi ấm cơ thể. Hình ảnh ngọn lửa diêm mang nhiều ý nghĩa sâu sắc. Trước hết ngọn lửa diêm xua tan cái lạnh lẽo, tăm tối để em bé có thể quên đi những bất hạnh, cay đắng của cuộc đời. Ngọn lửa diêm đã thắp sáng những mơ ước đẹp đẽ, những khao khát mãnh liệt, đem đến thế giới mộng tưởng với niềm vui, hạnh phúc. Đó còn là ngọn lửa của mơ ước về cuộc sống gia đình hạnh phúc, được sống trong tình yêu thương của cha mẹ, ông bà. Hình ảnh ngọn lửa diêm như con thuyền đầy tinh thần nhân văn của tác giả, thể hiện sự cảm thông, trân trọng những ước mơ giản dị, diệu kì của trẻ nhỏ.
Mỗi lần quẹt diêm, cô bé tội nghiệp lại được sống trong giây phút hạnh phúc, chìm đắm trong thế giới cổ tích, thoát khỏi thực tại tăm tối. Lần quẹt diêm thứ nhất, em thấy lò sưởi, vì trong đêm đông giá lạnh em cần được sưởi ấm. Khi que diêm vụt tắt, lò sưởi biến mất, nỗi sợ hãi mơ hồ lại xâm chiếm em “đêm nay về nhà thế nào cũng bị cha mắng”. Em lại lấy can đảm quẹt diêm lần thứ 2, lần này em thấy một bàn ăn thịnh soạn,… sự tưởng tượng của em thật hài hước, cho thấy mơ ước lớn nhất lúc này của em là được ăn no. Trong đêm giao thừa gia đình nào cũng quây quần bên mâm cơn, còn em lại đói lả đi trong cái giá lạnh. Chi tiết gây xúc động sâu sắc đến người đọc, nó gợi lên những ám ảnh day dứt khôn nguôi. Lần thứ ba, trong không khí đêm giáng sinh, em thấy hình ảnh của cây thông. Đó chính là biểu tượng của mái ấm gia đình hạnh phúc, là những ước mơ trong sáng của tuổi thơ. Lần thứ 4, giữa cái đói rét và cô độc, em khao khát có tình yêu thương và chỉ có bà là người yêu thương em nhất. Trong giây phút đó bà hiện lên thật ấm áp, đẹp đẽ. Cô bé khẩn thiết van xin bà cho đi cùng, bởi cô bé hiểu khi ngọn lửa diêm tắt đi bà cũng biến mất. Ước nguyện của cô bé thật đáng thương, cô bé muốn được che chở, được yêu thương biết nhường nào. Lần cuối cùng em quẹt hết số diêm còn lại để nhìn thấy bà và thật kì lạ ước nguyện cuối cùng của em đã trở thành hiện thực. Em không còn phải đối mặt với đòn roi, những lời mắng nhiếc, sự đói rét, nỗi buồn nữa, em đã được đến một thế giới khác, thế giới có bà ở bên. Qua những lần mộng tưởng của cô bé ta thấy cô bé là người có tâm hồn trong sáng, ngây thơ. Trong đói rét em không hề oán trách một ai vì đã thờ ơ trước cảnh ngộ của mình. Tâm hồn em thật trong sáng và nhân hậu biết chừng nào. Đó là một cô bé giàu mơ ước, vượt lên hoàn cảnh thực tại đói rét, cô đơn. Những mơ ước ấy giản dị mà cũng thật lãng mạn, diệu kì
Bài làm. Trong học tập, công việc cũng như cuộc sống hàng ngày, khi làm việc mà chúng ta không có kiến thức, không có bản lĩnh vững vàng sẽ dễ rơi vào tình trạng hay thay đổi ý kiến và thấy ý kiến nào cũng đúng. Anh thợ mộc trong truyện ngụ ngôn Đẽo cày giữa đường là một nhân vật tiêu biểu.
Trước hết người đọc thấy được trong truyện là một người ham làm giàu, có chí lớn. Điều đó được thể hiện ở việc anh đã dốc hết vốn trong nhà ra mua gỗ để làm nghề đẽo cày. Tuy nhiên, chí lớn của anh ta lại không tương xứng với tầm hiểu biết. Vốn kiến thức hạn hẹp của anh đã khiến anh thay đổi hành động liên tục. Khi đẽo cày được ông cụ góp ý, anh thấy phải liền nghe theo và làm ra rất nhiều sản phẩm nhưng không có ai mua. Những lần về sau cũng vậy, ai góp ý anh cũng thấy phải, nghe theo và kết thúc là vốn liếng của anh đi đời nhà ma cùng đống gỗ vụn. Giá như trước khi bắt tay vào thực hiện, anh nghiên cứu kĩ những yêu cầu cần đạt của sản phẩm cũng như khảo sát thực tế tình hình khu vực thì anh sẽ bảo vệ được chính kiến của mình và không khiến người khác buồn cười.
Không chỉ thiếu hiểu biết mà anh thợ mộc cũng không có bản lĩnh. Khi anh làm việc ở trung tâm người qua lại, ai nhìn vào thấy góp ý cũng là đương nhiên. Có người góp ý tốt nhưng cũng có người góp ý không tốt, nhưng anh không đủ bản lĩnh phản bác những điều sai mà điều góp ý nào cũng thấy phải. Cho nên anh nhậ lại kết quả quá đắt. Hành động đẽo cày của anh không sai, và lắng nghe, tiếp thu ý kiến từ người khác là tốt, tuy nhiên anh lắng nghe và tiếp thu thái quá, không có bản lĩnh nên gây nên hậu quả khôn lường.
Thông qua nhân vật anh thợ mộc, truyện ngụ ngôn đã khái quát được đặc điểm của một kiểu người trong xã hội: thiếu hiểu biết, thiếu bản lĩnh nên dễ thay đổi chính kiến của mình và kết quả không được như ý muốn. Qua đây, chúng ta cần biết lắng nghe những ý kiến góp ý của người khác nhưng phải biết cân nhắc, chọn lọc được ý kiến phù hợp, đúng đắn, kết hợp giữa lời góp ý với ý kiến của bản thân để có một kết quả tốt đẹp. Tuy nhiên trong tập thể, ý kiến cá nhân là cần thiết nhưng không được đề cao cái tôi cá nhân quá, mà cần lắng nghe, cùng nhau xây dựng tập thể vững mạnh.
Trong học tập, công việc cũng như cuộc sống hàng ngày, khi làm việc mà chúng ta không có kiến thức, không có bản lĩnh vững vàng sẽ dễ rơi vào tình trạng hay thay đổi ý kiến và thấy ý kiến nào cũng đúng. Anh thợ mộc trong truyện ngụ ngôn Đẽo cày giữa đường là một nhân vật tiêu biểu.
Trước hết người đọc thấy được trong truyện là một người ham làm giàu, có chí lớn. Điều đó được thể hiện ở việc anh đã dốc hết vốn trong nhà ra mua gỗ để làm nghề đẽo cày. Tuy nhiên, chí lớn của anh ta lại không tương xứng với tầm hiểu biết. Vốn kiến thức hạn hẹp của anh đã khiến anh thay đổi hành động liên tục. Khi đẽo cày được ông cụ góp ý, anh thấy phải liền nghe theo và làm ra rất nhiều sản phẩm nhưng không có ai mua. Những lần về sau cũng vậy, ai góp ý anh cũng thấy phải, nghe theo và kết thúc là vốn liếng của anh đi đời nhà ma cùng đống gỗ vụn. Giá như trước khi bắt tay vào thực hiện, anh nghiên cứu kĩ những yêu cầu cần đạt của sản phẩm cũng như khảo sát thực tế tình hình khu vực thì anh sẽ bảo vệ được chính kiến của mình và không khiến người khác buồn cười.
Không chỉ thiếu hiểu biết mà anh thợ mộc cũng không có bản lĩnh. Khi anh làm việc ở trung tâm người qua lại, ai nhìn vào thấy góp ý cũng là đương nhiên. Có người góp ý tốt nhưng cũng có người góp ý không tốt, nhưng anh không đủ bản lĩnh phản bác những điều sai mà điều góp ý nào cũng thấy phải. Cho nên anh nhậ lại kết quả quá đắt. Hành động đẽo cày của anh không sai, và lắng nghe, tiếp thu ý kiến từ người khác là tốt, tuy nhiên anh lắng nghe và tiếp thu thái quá, không có bản lĩnh nên gây nên hậu quả khôn lường.
Thông qua nhân vật anh thợ mộc, truyện ngụ ngôn đã khái quát được đặc điểm của một kiểu người trong xã hội: thiếu hiểu biết, thiếu bản lĩnh nên dễ thay đổi chính kiến của mình và kết quả không được như ý muốn. Qua đây, chúng ta cần biết lắng nghe những ý kiến góp ý của người khác nhưng phải biết cân nhắc, chọn lọc được ý kiến phù hợp, đúng đắn, kết hợp giữa lời góp ý với ý kiến của bản thân để có một kết quả tốt đẹp. Tuy nhiên trong tập thể, ý kiến cá nhân là cần thiết nhưng không được đề cao cái tôi cá nhân quá, mà cần lắng nghe, cùng nhau xây dựng tập thể vững mạnh.
Xét góc
x
O
y
xOy có góc kề bù là góc
x
O
z
xOz.
Gọi tia
O
t
Ot,
O
k
Ok lần lượt là tia phân giác của góc
x
O
y
xOy và góc
x
O
z
xOz.
Khi đó, ta có:
18
0
∘
=
x
O
y
^
+
x
O
z
^
=
2.
x
O
t
^
+
2.
x
O
k
^
180
∘
=
xOy
+
xOz
=2.
xOt
+2.
xOk
Suy ra
x
O
t
^
+
x
O
k
^
=
9
0
∘
xOt
+
xOk
=90
∘
.
Vậy
O
t
⊥
O
k
Ot⊥Ok.
Ô 4 = 35 độ
Vì đó có thể là lừa đảo.