

Trần Thị Gia Như
Giới thiệu về bản thân



































câu 1
Hình ảnh “mưa” trong bài thơ Mưa Thuận Thành không chỉ là hiện tượng thiên nhiên, mà còn là một biểu tượng nghệ thuật giàu sức gợi, xuyên suốt toàn bài. Mưa hiện lên với nhiều sắc thái: khi mềm mại, dịu dàng như “lụa mưa lùa”, “mưa nhoà gương soi”; khi tha thiết, chứa chan như “mưa còn khép nép, nhẹ rung tơ đàn”; khi hoài cổ, gợi nhớ lịch sử với “mưa chưa đậu vai trần Ỷ Lan”, “mưa chuông chùa lặn”. Mỗi hạt mưa như mang trong mình hơi thở của quá khứ, kết nối con người với vùng đất văn hóa lâu đời – Thuận Thành. Mưa gắn liền với vẻ đẹp nữ tính, gợi cảm, với hình ảnh người phụ nữ xưa vừa dịu dàng vừa kiêu hãnh. Đồng thời, mưa còn là nhịp cầu nối hiện tại với truyền thống, thể hiện nỗi niềm hoài vọng, xao xuyến của nhà thơ trước vẻ đẹp thiêng liêng, trầm tích của quê hương. Có thể nói, “mưa” trong bài thơ không chỉ tưới mát không gian mà còn làm sống dậy một miền ký ức văn hóa – lịch sử sâu lắng và đầy xúc cảm.
câu2
Từ xưa đến nay, người phụ nữ luôn giữ một vị trí đặc biệt trong đời sống xã hội và văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, dưới tác động của từng thời đại, số phận của họ đã có nhiều thay đổi. Nếu như người phụ nữ xưa gắn liền với những bi kịch, hi sinh, cam chịu thì người phụ nữ ngày nay đã phần nào được giải phóng, khẳng định vị thế và tiếng nói của mình trong xã hội. Giữa quá khứ và hiện tại, hình ảnh người phụ nữ vừa có sự tương đồng, vừa thể hiện những điểm khác biệt rõ nét.
Điểm tương đồng trước hết nằm ở vẻ đẹp tâm hồn và vai trò trong gia đình – xã hội. Dù ở thời đại nào, người phụ nữ Việt Nam cũng mang trong mình phẩm chất truyền thống đáng quý: chịu thương, chịu khó, thủy chung, giàu đức hi sinh. Trong văn học trung đại, người phụ nữ hiện lên đầy xúc động qua những nhân vật như Thúy Kiều (trong Truyện Kiều của Nguyễn Du) hay Vũ Nương (trong Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ) – những con người đẹp người, đẹp nết, luôn hết lòng vì chồng con, nhưng lại phải chịu đựng bất công, định kiến. Ngày nay, vẻ đẹp ấy vẫn tiếp nối, thể hiện qua hình ảnh những người mẹ tảo tần, những người vợ hy sinh thầm lặng, những nữ doanh nhân, bác sĩ, giáo viên ngày đêm cống hiến cho xã hội. Từ điểm nhìn văn hóa, truyền thống “anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang” vẫn là biểu tượng xuyên suốt của người phụ nữ Việt Nam qua mọi thời kỳ.
Tuy nhiên, sự khác biệt trong số phận của người phụ nữ xưa và nay lại thể hiện rất rõ qua vị thế xã hội và quyền bình đẳng. Trong xã hội phong kiến xưa, người phụ nữ sống trong chế độ “trọng nam khinh nữ”, bị gò bó bởi tam tòng, tứ đức và hoàn toàn phụ thuộc vào nam giới. Họ gần như không có tiếng nói trong các quyết định lớn của cuộc đời – từ hôn nhân đến học hành, sự nghiệp. Cuộc đời của họ nhiều khi là chuỗi dài bi kịch do định kiến và bất công gây nên. Ngược lại, người phụ nữ hiện đại – nhờ vào thành tựu của các cuộc cách mạng xã hội và phong trào đấu tranh vì quyền phụ nữ – đã có nhiều thay đổi lớn. Họ được học tập, lao động, tham gia lãnh đạo và giữ vai trò quan trọng trong nhiều lĩnh vực: khoa học, chính trị, nghệ thuật, thể thao… Những người như Võ Thị Sáu, Nguyễn Thị Định, hay gần đây là những doanh nhân thành đạt, nhà khoa học nữ… là minh chứng cho sự thay đổi mạnh mẽ ấy.
Tuy vậy, không thể phủ nhận rằng, người phụ nữ hiện đại vẫn còn phải đối mặt với nhiều áp lực và bất công, tuy ở hình thức khác. Họ vừa phải khẳng định năng lực ngoài xã hội, vừa phải chu toàn trách nhiệm trong gia đình. Một số định kiến vẫn tồn tại âm ỉ trong tư tưởng và nếp sống của xã hội hiện đại, khiến hành trình đi đến bình đẳng giới hoàn toàn vẫn còn nhiều thách thức.
Tóm lại, người phụ nữ xưa và nay đều mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp, là trụ cột tinh thần và đạo đức của gia đình và xã hội. Tuy nhiên, số phận của họ đã có nhiều thay đổi tích cực nhờ sự phát triển của xã hội hiện đại. Sự khác biệt đó không chỉ là minh chứng cho tiến trình tiến bộ xã hội mà còn đặt ra trách nhiệm cho mỗi cá nhân và cộng đồng trong việc tiếp tục xây dựng một môi trường bình đẳng, văn minh và nhân văn hơn cho người phụ nữ hôm nay.
Câu 1. Xác định thể thơ của bài thơ trên.
Trả lời: Bài thơ được viết theo thể thơ tự do.
⸻
Câu 2. Hình ảnh tượng trưng được thể hiện xuyên suốt trong bài thơ là gì?
Trả lời: Hình ảnh tượng trưng xuyên suốt bài thơ là hạt mưa – biểu tượng của ký ức, tình cảm, vẻ đẹp dịu dàng, nữ tính gắn với vùng đất Thuận Thành và những hình ảnh văn hóa – lịch sử của nơi đây.
⸻
Câu 3. Chọn một hình ảnh thơ mà em thấy ấn tượng và nêu cảm nghĩ của em về hình ảnh đó.
Trả lời:
Hình ảnh thơ “Vai trần Ỷ Lan” để lại ấn tượng sâu sắc trong em. Hình ảnh gợi vẻ đẹp nữ tính, uyển chuyển nhưng cũng rất mạnh mẽ, thể hiện tinh thần của người phụ nữ Việt Nam xưa – vừa dịu dàng, vừa tài giỏi, có khả năng gánh vác việc lớn. Qua đó, tác giả đã làm sống lại hình ảnh bà Ỷ Lan – người phụ nữ tài hoa của lịch sử dân tộc – trong một không gian mưa đầy hoài niệm.
⸻
Câu 4. Cấu tứ của bài thơ được thể hiện như thế nào?
Trả lời: Bài thơ có cấu tứ tự do, phóng túng nhưng giàu tính liên kết. Các hình ảnh, câu thơ được xâu chuỗi bằng mạch cảm xúc hoài niệm và sự gợi nhớ về vùng đất Thuận Thành trong mưa. Từ những hình ảnh thiên nhiên đến các biểu tượng văn hóa – lịch sử (như Ỷ Lan, Luy Lâu, Chùa Dâu…), bài thơ dần mở rộng không gian, thời gian và chiều sâu cảm xúc.
⸻
Câu 5. Phát biểu về đề tài, chủ đề của bài thơ.
Trả lời:
Bài thơ khai thác đề tài quê hương – lịch sử – văn hóa, cụ thể là về vùng đất Thuận Thành. Chủ đề bài thơ là nỗi nhớ và niềm tự hào về vẻ đẹp văn hóa, con người, lịch sử của Thuận Thành, được thể hiện qua hình ảnh mưa giàu chất thơ và gợi cảm.
văn bản kể về mối lương duyên giữa Từ Hải và Thúy Kiều – cuộc gặp gỡ định mệnh giữa anh hùng và giai nhân.
1. Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo
→ Điển cố từ câu thơ của Hoàng Sào, lãnh tụ khởi nghĩa thời Đường: nói lên chí khí giang hồ, tung hoành ngang dọc với chỉ nửa gánh vũ khí và một mái chèo.
2. Mắt xanh
→ Điển tích từ Nguyên Tịch thời Tấn: ai được trọng thì nhìn bằng mắt xanh, ai bị khinh thì nhìn bằng mắt trắng. Từ Hải dùng để hỏi Kiều có từng yêu ai chưa.
3. Tấn Dương
→ Địa danh nơi Đường Cao Tổ (Lý Uyên) khởi binh chống nhà Tùy, lập nên nhà Đường. Ở đây, Kiều ví Từ Hải như người có thể dựng nghiệp lớn.
4. Trần ai
→ Chỉ thế tục bụi bặm, dùng để nói về thời kỳ người anh hùng chưa lập được công danh, vẫn sống đời bình thường.
5. Băng nhân
→ Người làm mối, điển tích trong các truyện xưa về việc dựng vợ gả chồng.
6. Sánh phượng, cưỡi rồng
→ Điển tích:
• “Phượng hoàng vu phi” – chim phượng bay cùng nhau, chỉ lứa đôi xứng lứa vừa đôi.
• “Cưỡi rồng”: chỉ con gái gả cho người tài, sau này nên nghiệp lớn như Lý Ung, Hoàng Hiến thời Đông Hán.
Những điển cố này làm nổi bật hình tượng Từ Hải - người anh hùng kiệt xuất và mối tình đẹp giữa chàng và Thúy Kiều. Nếu bạn muốn mình phân tích thêm về ý nghĩa hoặc tác dụng của các điển cố này trong tác ph
Nguyễn Du đã sử dụng nhiều hình ảnh, từ ngữ đặc sắc để khắc họa vẻ đẹp ngoại hình, tài năng và phẩm chất của Từ Hải:
Về ngoại hình:
“Râu hùm, hàm én, mày ngài”
“Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”
→ Tô đậm hình ảnh oai phong, cường tráng, mang dáng dấp của bậc anh hùng.
Về tài năng, chí khí:
“Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài”
“Đội trời đạp đất ở đời”
“Giang hồ quen thú vẫy vùng”
“Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo”
→ Thể hiện tài võ nghệ, mưu lược, khí phách ngang tàng, tung hoành khắp bốn phương.
Về phẩm chất, tâm hồn:
“Tâm phúc tương cờ”, “Tri kỷ trước sau mấy người”
“Một lời đã biết đến ta, muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau”
→ Từ Hải là người trọng tình nghĩa, biết trân trọng và thấu hiểu tâm hồn của Thúy Kiều.
=> Qua đó, Từ Hải hiện lên như một hình tượng lý tưởng – một giấc mộng anh hùng và công lý giữa xã hội phong kiến đầy bất công, là niềm tin và khát vọng của Nguyễn Du về con người tài năng, chính nghĩa và đầy nhân văn.
1. Bút pháp khắc họa nhân vật Từ Hải:
Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp lý tưởng hóa và lãng mạn để xây dựng hình tượng nhân vật Từ Hải.
2. Phân tích tác dụng của bút pháp lý tưởng hóa và lãng mạn:
Lý tưởng hóa Từ Hải thành hình tượng anh hùng toàn diện:
Ngoại hình phi thường: “râu hùm, hàm én, mày ngài”, “thân mười thước cao”.
Tài năng xuất chúng: “côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài”, “đội trời đạp đất”.
Tâm hồn cao đẹp, đầy nghĩa tình: “tri kỷ trước sau mấy người”, “muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau”.
→ Qua đó, Từ Hải không chỉ là một con người thực, mà còn là biểu tượng của khí phách nam nhi, chính nghĩa, công lý và lý tưởng tự do.
Tô đậm khát vọng công lý, tự do và hạnh phúc của con người:
Nguyễn Du thông qua Từ Hải đã gửi gắm ước mơ thoát khỏi trói buộc của xã hội phong kiến, khát khao về một người anh hùng có thể cứu vớt và bảo vệ những con người bị áp bức như Thúy Kiều.
Làm nổi bật mối tình đẹp, bình đẳng giữa Từ Hải và Thúy Kiều:
Không phải là kẻ mua người bán như những người đàn ông trước đó, Từ Hải đến với Kiều bằng tình cảm “tâm phúc tương cờ”, trân trọng và thấu hiểu nàng.
→ Điều này tạo nên sự đối lập đầy nhân văn với xã hội đương thời.
chi tiết mà còn nằm ở chiều sâu nhân văn và tư tưởng lý tưởng hóa con người. Ông đã nâng tầm Từ Hải từ một hảo hán đời thường thành một hình tượng sử thi – một “người trời” mang khát vọng và lý tưởng cao cả, tạo dấu ấn riêng biệt và làm nên giá trị vượt thời gian của Truyện Kiều.
Trong hành trình phát triển của mỗi con người, đặc biệt là với thế hệ trẻ - lực lượng xung kích, tiên phong của xã hội, việc xác định và theo đuổi một lí tưởng sống đúng đắn là điều vô cùng quan trọng. Lí tưởng sống không chỉ là đích đến, là kim chỉ nam cho hành động mà còn là động lực thôi thúc con người không ngừng nỗ lực, vươn lên và cống hiến cho cộng đồng, dân tộc. Trong bối cảnh xã hội hiện đại đang chuyển mình mạnh mẽ với sự phát triển vượt bậc của công nghệ, sự giao thoa văn hóa toàn cầu và những thách thức toàn diện, lí tưởng sống của thế hệ trẻ lại càng trở thành vấn đề cấp thiết, đáng để quan tâm và suy ngẫm.
Lí tưởng sống có thể hiểu đơn giản là những mục tiêu sống cao đẹp mà con người luôn hướng tới trong cuộc đời. Đó không phải là những mong muốn tầm thường như kiếm thật nhiều tiền, nổi tiếng hay sống hưởng thụ, mà là những mục tiêu mang giá trị lâu dài, tích cực, gắn với khát vọng được khẳng định bản thân, góp phần làm cho cuộc sống của người khác tốt đẹp hơn và cho xã hội trở nên văn minh, tiến bộ. Với thế hệ trẻ, lí tưởng sống chính là nền tảng để họ xây dựng bản lĩnh, phát triển nhân cách và vươn lên thành những công dân có ích cho đất nước.
Thật đáng mừng khi ngày nay, rất nhiều người trẻ đã và đang nuôi dưỡng những lí tưởng sống cao cả. Nhiều bạn trẻ chọn con đường học tập không chỉ để thành công cá nhân mà còn mong muốn đóng góp tri thức cho đất nước, đưa Việt Nam sánh vai với các cường quốc năm châu. Không ít bạn trẻ tham gia các hoạt động thiện nguyện, bảo vệ môi trường, đấu tranh vì công lí hay mang giáo dục đến với trẻ em nghèo vùng cao. Họ không chỉ sống cho bản thân, mà còn vì cộng đồng, vì xã hội, vì tương lai đất nước. Họ chính là minh chứng cho một thế hệ trẻ đầy khát vọng, đầy trách nhiệm và tràn đầy niềm tin vào giá trị của cuộc sống.
Tuy nhiên, bên cạnh những tấm gương đáng trân trọng ấy, vẫn còn không ít người trẻ sống không mục đích, thiếu định hướng, chạy theo những giá trị ảo như sự nổi tiếng chóng vánh trên mạng xã hội, lối sống hưởng thụ, thực dụng, thậm chí là lệch chuẩn đạo đức. Nhiều bạn chìm đắm trong thế giới ảo, lười biếng học tập, không dám dấn thân, không dám đối mặt với khó khăn, thử thách. Một số khác lại mất niềm tin vào cuộc sống, dễ dàng buông bỏ khi gặp thất bại. Đó là hệ quả của sự thiếu hụt lí tưởng sống, thiếu sự giáo dục định hướng từ gia đình, nhà trường và xã hội.
Chính vì vậy, để xây dựng một thế hệ trẻ có lí tưởng sống cao đẹp, cần có sự chung tay của nhiều phía. Trước hết, mỗi bạn trẻ cần nhận thức rõ vai trò, trách nhiệm của mình đối với xã hội, biết sống có mục đích và chủ động trau dồi tri thức, kĩ năng, đạo đức để theo đuổi lí tưởng đã chọn. Bên cạnh đó, gia đình cần là điểm tựa tinh thần, là nơi nuôi dưỡng ước mơ và lí tưởng cho con em mình. Nhà trường cần đổi mới phương pháp giáo dục, chú trọng giáo dục đạo đức, lí tưởng sống, lòng yêu nước và tinh thần trách nhiệm. Ngoài ra, các tổ chức, đoàn thể xã hội cũng cần tạo môi trường, cơ hội để thanh niên được cống hiến, được trải nghiệm và khẳng định bản thân.
Lí tưởng sống của thế hệ trẻ không cần phải là những điều quá cao xa, mà có thể bắt đầu từ những hành động nhỏ: học tốt, sống có trách nhiệm, biết yêu thương, chia sẻ với cộng đồng. Một người trẻ có lí tưởng sẽ không ngừng vươn lên, dám đối mặt với khó khăn, thử thách, dám từ bỏ cái tôi ích kỉ để sống vì điều lớn lao hơn – vì gia đình, vì Tổ quốc, vì nhân loại.
Tóm lại, trong bất kỳ thời đại nào, lí tưởng sống vẫn luôn là ánh sáng soi đường cho thanh niên trong hành trình trưởng thành và khẳng định giá trị bản thân. Thế hệ trẻ hôm nay – những chủ nhân tương lai của đất nước – hãy xác định cho mình một lí tưởng sống đúng đắn, sống có hoài bão, có khát vọng cống hiến để góp phần xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn, một đất nước hùng cường hơn. Chỉ khi sống có lí tưởng, tuổi trẻ mới trở nên ý nghĩa, đáng sống và đáng tự hào.
Nhà văn Nga Lép Tôn-xtôi nói: “Lí tưởng là ngọn đèn chỉ đường. Không có lí tưởng thì không có phương hướng kiên định, mà không có phương hướng thì không có cuộc sống”. Câu nói khẳng định vai trò của lí tưởng trong cuộc sống của mỗi con người.
Lí tưởng, đó là mục đích cao nhất, tốt đẹp nhất mà con người phấn đấu để đạt tới, đó là niềm tin, là điều con người tôn thờ, khao khát. Có một niềm tin vững chắc vào lí tưởng, con người sống trong những niềm vui tột cùng như nhà thơ Tố Hữu từng hân hoan:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim”
Tố Hữu cũng như bao thanh niên Việt Nam yêu nước trong những tháng năm đất nước bị nô lệ tù đày, lí tưởng của nhà thơ là lí tưởng cộng sản, lí tưởng cách mạng, sống và chiến đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Hôm nay đây, khi nước nhà đã độc lập, lí tưởng của mỗi cá nhân rất khác nhau song đều chung nhau ở khát khao được khẳng định bản thân, được đóng góp cho gia đình và cộng đồng xã hội.
Cuộc sống con người nhiều khó khăn, gian nan và vất vả. Nếu không có ánh sáng soi đường, không có sức mạnh cổ vũ, tiếp sức thì nhiều người đã gục ngã, bỏ cuộc. Vậy đâu là ánh sáng và sức mạnh của con người? Đó là lí tưởng. Lí tưởng giống như ngọn đèn chỉ đường, nó chỉ cho con người con đường họ phải đi để đạt được mục đích, và đó là con đường sáng – con đường thiện. Nó cũng tạo ra động lực, thúc đẩy và động viên con người hành động để đạt được mục đích.
Con người sống có lí tưởng luôn biết rõ con đường mình phải đi, không bị cám dỗ, níu kéo bởi những lợi ích tầm thường, hèn kém: “Không có lí tưởng thì không có phương hướng kiên định”. Trong tình cảnh nước nhà có giặc ngoại xâm, lí tưởng của con người Việt Nam là giết giặc cứu nước – lí tưởng ấy soi rọi con đường mỗi người dân nước Nam đang đi, họ hiểu rõ “Thà làm ma nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc” (Trần Bình Trọng) và “Thanh niên Việt Nam chỉ có một con đường duy nhất là làm cách mạng chứ không còn con đường nào khác” (Lí Tự Trọng).
Người sống không có lí tưởng luôn bị dao động, không ổn định về lập trường, tư tưởng. Khi mà lập trường, tư tưởng không vững vàng, sáng suốt, kiên định thì cuộc sống luôn chao đảo, bất bênh, và dễ lầm đường lạc lối. Đó là trường hợp của những kẻ bán nước hại dân trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Nhiều kẻ đã quy hàng thực dân Pháp, nhưng khi Pháp hai lần bán nước ta cho Nhật thì lại đớn hèn lê gối làm tôi tớ cho Nhật tiếp tục phản bội giống nòi.
Người sống có lí tưởng luôn có sức mạnh để vượt qua muôn vàn gian khó, nguy hiểm trên đời. Các chiến sĩ cách mạng vì sự nghiệp giải phóng dân tộc mà không nề hiểm nguy, họ sống thiếu thốn, nghèo khổ, lam lũ, lẩn trốn sự truy đuổi kẻ thù, thậm chí phải chịu lao tù, tra tấn “điện giật, dùi đâm”, “dao cắt”, “bị bỏ đói”… Nhưng tất cả mọi thử thách dù nhọc nhằn gian khổ đến đâu đều không quật ngã được ý chí sắt đá, sự kiên cường bất khuất của những con người được tôi rèn bằng lí tưởng cách mạng.
Vậy nếu như con người sống mà không có lí tưởng? Khi ấy, điều đó đồng nghĩa với việc “không có phương hướng thì không có cuộc sống”.
Gọi là cuộc sống sao được nếu như những vị anh hùng của thời đại chấp nhận “đốt cháy những gì mình đã tôn thờ và tôn thờ những gì mình đã đốt cháy”, phản bội lí tưởng, phản bội niềm tin để quay lưng với lợi ích dân tộc chấp nhận cuộc đời nhung lụa trong tư thế cúi đầu đầy tủi nhục? Cũng chẳng thể gọi là cuộc sống nếu như mục đích của đời người trở thành một chiếc chong chóng đặt xuôi chiều cơn gió, bởi khi ấy, bạn đã trở thành một thứ đồ chơi trong tay kẻ khác.
Lí tưởng cao đẹp là phương hướng nhưng đồng thời đó còn là động lực giúp nhiều bạn trẻ hiện nay vượt qua những khó khăn, cám dỗ của cuộc sống hiện đại để học tốt, sống tốt. Sống không lí tưởng, gặp khó khăn sẽ mau chóng nản chí, bỏ cuộc dù nó chỉ là một cơn buồn ngủ lúc canh khuya học bài. Thế hệ thanh niên chúng ta ngày nay đang cần lắm những con đường sáng, những sức mạnh diệu kỳ để vượt qua khó khăn của thế hệ. Vì vậy, việc tự xây dựng cho mình một lí tưởng cao đẹp là điều ai cũng cần làm và phải làm ngay, làm gấp.
1. Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo
→ Điển cố từ câu thơ của Hoàng Sào, lãnh tụ khởi nghĩa thời Đường: nói lên chí khí giang hồ, tung hoành ngang dọc với chỉ nửa gánh vũ khí và một mái chèo.
2. Mắt xanh
→ Điển tích từ Nguyên Tịch thời Tấn: ai được trọng thì nhìn bằng mắt xanh, ai bị khinh thì nhìn bằng mắt trắng. Từ Hải dùng để hỏi Kiều có từng yêu ai chưa.
3. Tấn Dương
→ Địa danh nơi Đường Cao Tổ (Lý Uyên) khởi binh chống nhà Tùy, lập nên nhà Đường. Ở đây, Kiều ví Từ Hải như người có thể dựng nghiệp lớn.
4. Trần ai
→ Chỉ thế tục bụi bặm, dùng để nói về thời kỳ người anh hùng chưa lập được công danh, vẫn sống đời bình thường.
5. Băng nhân
→ Người làm mối, điển tích trong các truyện xưa về việc dựng vợ gả chồng.
6. Sánh phượng, cưỡi rồng
→ Điển tích:
• “Phượng hoàng vu phi” – chim phượng bay cùng nhau, chỉ lứa đôi xứng lứa vừa đôi.
• “Cưỡi rồng”: chỉ con gái gả cho người tài, sau này nên nghiệp lớn như Lý Ung, Hoàng Hiến thời Đông Hán.
Những điển cố này làm nổi bật hình tượng Từ Hải - người anh hùng kiệt xuất và mối tình đẹp giữa chàng và Thúy Kiều. Nếu bạn muốn mình phân tích thêm về ý nghĩa hoặc tác dụng của các điển cố này trong tác ph