Nguyễn Ngọc Xuyến

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Nguyễn Ngọc Xuyến
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

Câu 1:

Một số cuộc khởi nghĩa tiêu biểu thời kỳ Bắc thuộc, kèm theo thời gian bùng nổ và tên người lãnh đạo: - Khởi nghĩa Hai Bà Trưng Thời gian: Năm 40 Lãnh đạo: Trưng Trắc và Trưng Nhị

- Khởi nghĩa Bà Triệu Thời gian: Năm 248 Lãnh đạo: Triệu Thị Trinh (Bà Triệu)

- Khởi nghĩa Lý Bí

Thời gian: Năm 542 Lãnh đạo: Lý Bí (Lý Nam Đế)

-Khởi nghĩa Mai Thúc Loan Thời gian: Năm 722 Lãnh đạo: Mai Thúc Loan (Mai Hắc Đế) - Khởi nghĩa Phùng Hưng Thời gian: Khoảng năm 766 – 791 Lãnh đạo: Phùng Hưng -Khởi nghĩa Dương Đình Nghệ Thời gian: Năm 931 Lãnh đạo: Dương Đình Nghệ -Khởi nghĩa Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng Thời gian: Năm 938 Lãnh đạo: Ngô Quyền

Câu 2 :

Bảo vệ chủ quyền biển đảo không chỉ là nhiệm vụ của Nhà nước, mà còn là trách nhiệm thiêng liêng của mỗi người dân Việt Nam. Công dân có thể đóng góp bằng nhiều việc làm cụ thể và ý nghĩa như: - Tự trang bị kiến thức về chủ quyền biển đảo và luật pháp quốc tế để hiểu đúng, hành động đúng. - Lan tỏa thông tin chính xác, đấu tranh với các quan điểm sai trái, góp phần bảo vệ sự thật và chính nghĩa. - Ủng hộ tinh thần và vật chất cho lực lượng làm nhiệm vụ ngoài biển, thể hiện lòng biết ơn và sự đoàn kết dân tộc. - Bảo vệ môi trường biển, giữ gìn tài nguyên cho hôm nay và thế hệ mai sau. - Tuân thủ pháp luật trên biển, tránh các hành vi vi phạm chủ quyền quốc gia. - Thể hiện lòng yêu nước bằng hành động thiết thực, văn minh, đúng đắn. - Chăm chỉ học tập, rèn luyện bản thân, chuẩn bị để góp sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. - Góp phần quảng bá hình ảnh Việt Nam hòa bình, nhân văn, thông qua lối sống có trách nhiệm và tinh thần công dân toàn cầu.


Trong tác phẩm Những người khốn khổ, Victor Hugo từng viết: “Trên đời này, không có gì mạnh mẽ hơn một ý chí đã được thắp sáng bằng lý tưởng.” Câu nói ấy cho thấy sức mạnh kỳ diệu của lý tưởng sống – kim chỉ nam đưa con người vượt qua những giới hạn cá nhân để hướng tới các giá trị cao cả hơn. Trong thời đại ngày nay, khi thế giới không ngừng đổi thay bởi sự phát triển của công nghệ, trí tuệ nhân tạo và toàn cầu hóa, thì việc người trẻ có lý tưởng sống đúng đắn là điều vô cùng quan trọng. Lý tưởng sống là khát vọng sống cao đẹp, gắn liền với mục tiêu cụ thể và có ích cho bản thân, gia đình và xã hội. Đó không đơn thuần là mơ ước, mà là sự định hướng hành động lâu dài, đòi hỏi người trẻ phải có bản lĩnh, lòng kiên trì và tinh thần dấn thân. Một người trẻ sống có lý tưởng là người dám nghĩ, dám làm, dám cống hiến cho điều tốt đẹp. Thật đáng mừng khi ngày càng nhiều bạn trẻ Việt Nam đang thể hiện lý tưởng sống của mình qua những việc làm cụ thể. Nguyễn Thị Thu Hằng – quán quân "Đường lên đỉnh Olympia 2020" – không chỉ nổi bật bởi trí tuệ mà còn bởi ước mơ trở thành nhà ngoại giao, đóng góp vào việc đưa tiếng nói Việt Nam ra thế giới. Em Phan Đăng Nhật Minh – “cậu bé Google” – sau ánh hào quang cuộc thi đã chọn con đường học tập nghiêm túc và luôn hướng về cội nguồn khi nhiều lần chia sẻ mong muốn làm việc tại Việt Nam để phát triển khoa học công nghệ nước nhà. Không chỉ những gương mặt nổi tiếng, mà ngay trong đời thường, vẫn có biết bao bạn trẻ sống đầy trách nhiệm và ý nghĩa. Lê Đình Hiếu – một thanh niên từng được Forbes vinh danh "30 under 30 châu Á" – đã từ bỏ cơ hội làm việc tại Mỹ để về Việt Nam sáng lập học viện kỹ năng xã hội “G.A.P Institute”, giúp học sinh phát triển toàn diện. Hay những thanh niên nơi vùng sâu vùng xa như thầy giáo Nguyễn Văn Hùng ở Mù Cang Chải, đã bỏ phố về quê dạy học cho học trò nghèo suốt nhiều năm liền mà không màng danh lợi. Họ đều có chung một điểm: sống vì lý tưởng phục vụ cộng đồng. Tuy nhiên, bên cạnh những tấm gương sáng ấy, cũng không ít người trẻ đang sống thiếu mục tiêu, lý tưởng. Một số bị cuốn vào vòng xoáy của “sống ảo”, chạy theo trào lưu vô nghĩa trên mạng xã hội, sống thực dụng, lười học, ngại rèn luyện. Có người xem thành công như thứ “chốt đơn online”, mong muốn giàu có nhanh mà không cần cố gắng. Điều này dễ khiến họ mất phương hướng, trở nên hụt hẫng khi đối mặt với thực tế, dẫn đến khủng hoảng tâm lý, thậm chí là từ bỏ ước mơ giữa chừng. Muốn thế hệ trẻ có lý tưởng sống đúng đắn, cần sự chung tay từ nhiều phía. Gia đình nên là điểm tựa đầu tiên, nuôi dưỡng lòng yêu thương, nhân ái và tinh thần trách nhiệm. Nhà trường cần đổi mới giáo dục theo hướng khuyến khích tư duy phản biện, học tập gắn liền với thực tiễn. Xã hội cần tạo ra môi trường lành mạnh, công bằng, nơi người trẻ được cống hiến, được ghi nhận và phát triển. Quan trọng hơn cả, mỗi bạn trẻ cần tự ý thức được vai trò và sứ mệnh của mình, không ngừng học hỏi, dấn thân và làm chủ cuộc đời mình bằng tinh thần trách nhiệm cao nhất. Không ai bắt buộc bạn trẻ phải trở thành “người hùng” thay đổi thế giới. Nhưng ai cũng có thể sống lý tưởng bằng những việc làm bình dị: học tốt, sống tử tế, biết yêu thương, không quay lưng trước khó khăn của người khác. Lý tưởng sống không chỉ khiến cuộc sống có ý nghĩa hơn, mà còn giúp người trẻ vững vàng trước mọi thử thách và cạm bẫy của cuộc đời. Lý tưởng sống là thứ ánh sáng soi đường, là la bàn định hướng tương lai cho thế hệ trẻ. Một người trẻ sống có lý tưởng sẽ không dễ bị cuốn vào những điều vô nghĩa, mà luôn biết mình cần gì, vì sao phải cố gắng và đâu là giá trị thật sự của cuộc đời. Trong hành trình trưởng thành hôm nay, mong rằng mỗi bạn trẻ đều tìm được cho mình một lý tưởng sống chân chính – để không chỉ sống tốt cho bản thân, mà còn trở thành người kiến tạo tương lai cho đất nước và nhân loại.

Trong đoạn trích Trai anh hùng, gái thuyền quyên, Nguyễn Du đã xây dựng hình tượng Từ Hải như một biểu tượng anh hùng lý tưởng – hiện thân của chí lớn, tài năng, khí phách và tình yêu chân thành. Ngay từ khi xuất hiện, Từ Hải đã mang dáng vẻ phi thường với ngoại hình “râu hùm, hàm én, mày ngài”, “vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”. Vẻ ngoài ấy không chỉ khắc họa khí chất anh hùng mà còn gợi liên tưởng đến những nhân vật kỳ vĩ trong sử thi và truyền thuyết. Không chỉ có sức mạnh, Từ Hải còn hội tụ trí tuệ và bản lĩnh: “côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài”. Đó là một người từng “giang hồ quen thú vẫy vùng”, nhưng không phải là kẻ phiêu lưu vô định, mà là người dám sống cho lý tưởng, tự do và khát vọng lớn. Đặc biệt, khi gặp Thúy Kiều, Từ Hải bộc lộ rõ tâm hồn trọng nghĩa, khinh tài, khát khao tìm kiếm tri âm: “một lời đã biết đến ta, muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau”. Tình yêu của Từ dành cho Kiều không vụ lợi, không trăng gió, mà là sự kết nối của những con người lớn, cùng lý tưởng, cùng khát vọng. Qua hình tượng này, Nguyễn Du không chỉ lý tưởng hóa nhân vật Từ Hải, mà còn gửi gắm ước mơ về một con người có thể phá vỡ rào cản bất công, mang lại công lý và tự do cho cuộc đời.

So với Thanh Tâm tài nhân, Nguyễn Du sáng tạo khi lý tưởng hóa nhân vật Từ Hải, không chỉ là một hảo hán mà là một trang anh hùng vĩ đại, mang vóc dáng phi phàm, tài đức toàn vẹn, đại diện cho khát vọng tự do và công lý. Hình tượng Từ Hải vì vậy mang màu sắc thi ca, lý tưởng và hào hùng hơn.


Từ Hải được khắc họa bằng bút pháp ước lệ tượng trưng.

Tác dụng: Tô đậm vẻ đẹp phi thường, hình tượng anh hùng lãng mạn, tài trí và chí lớn, từ đó làm nổi bật sự kỳ vọng của tác giả về hình mẫu con người lý tưởng giữa xã hội phong kiến nhiều bất công.

Từ ngữ, hình ảnh: “râu hùm, hàm én, mày ngài”, “vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”, “đường đường một đấng anh hào”, “côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài”, “đội trời, đạp đất”, “giang hồ quen thú vẫy vùng”. Nhận xét: Nguyễn Du dành cho Từ Hải sự ngưỡng mộ và tôn kính. Ông xây dựng hình ảnh một người anh hùng lý tưởng, có tài, có khí phách và mang vẻ đẹp phi thường, vượt lên trên người thường.

Một số điển tích, điển cố trong văn bản. “Tấn Dương được thấy mây rồng” “Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng” “Mắt xanh chẳng để ai vào” “Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo” “Trần ai” “Tâm phúc tương cờ”


Văn bản kể về cuộc gặp gỡ và nên duyên giữa Thúy Kiều và Từ Hải