Nguyễn Ngọc Linh

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Nguyễn Ngọc Linh
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

   Sự thất bại của các phong trào yêu nước Việt Nam nổ ra từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã làm cho cách mạng Việt Nam khủng hoảng về con đường giải phóng dân tộc. Người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã sớm nhận thấy con đường do những người đi trước mở ra sẽ không giải phóng được dân tộc. Việc không lặp lại thất bại của những người đi trước là một điều khó khăn nhưng tìm ra một con đường mới phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử để dân tộc giành được độc lập, tự do là một điều còn khó khăn hơn nhiều lần.

   

Ngày 5/6/1911, trên con tàu Amiral Latouche Tréville, từ cảng Sài Gòn, Nguyễn Tất Thành đã rời Tổ quốc, bắt đầu cuộc hành trình 30 năm tìm con đường giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước. Vào thời điểm đó, không ai biết rằng vận mệnh của dân tộc Việt Nam đã gắn liền với quyết định ra đi của một con người mà lịch sử đã chứng tỏ là sáng suốt, phi thường ấy.

Với một sự nhạy cảm đặc biệt, Nguyễn Tất Thành không đi sang nước Nhật, không tìm về châu Á mà Người sang nước Pháp, đến tận nơi nước đang cai trị mình, đến tận châu Âu, nơi đang có sự phát triển vượt bậc về kinh tế, về văn hóa, về chính trị để tìm hiểu xem người ta làm như thế nào rồi trở về cứu giúp đồng bào. Bác ra đi, hành trang chỉ là lòng yêu nước, thương dân sâu sắc, quyết tâm tìm con đường cứu nước, cứu dân.

Sau thời gian ở Pháp, Nguyễn Tất Thành tiếp tục cuộc hành trình đi qua nhiều châu lục khác. Suốt chặng đường bôn ba, cuộc sống đầy gian khổ nhưng không làm Người chùn bước, trái lại, càng tôi luyện, hun đúc lòng yêu nước nồng nàn với mục tiêu giải phóng dân tộc kiên định. Người tranh thủ mọi thời cơ để học hỏi, nghiên cứu các học thuyết cách mạng, hòa mình vào thực tiễn đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước tư bản và thuộc địa.

Chính chủ nghĩa yêu nước cùng với những năm tháng tìm tòi không mệt mỏi về lý luận và hoạt động trong phong trào công nhân quốc tế, người thanh niên Việt Nam Nguyễn Tất Thành bất chấp mọi hiểm nguy, đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, trở thành nhà hoạt động quốc tế xuất sắc Nguyễn Ái Quốc.

Sớm nhận thức được xu thế phát triển tất yếu của lịch sử và tính chất của thời đại mới mà Cách mạng tháng Mười mở ra, Người đã khám phá ra chân lý “Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.

Năm 1917, Nguyễn Ái Quốc trở về Pháp, sống ở Paris, tham gia những hoạt động của Đảng xã hội Pháp, tham gia trong hoạt động của những người yêu nước Việt Nam tại Pháp và đặc biệt, khi tiếp cận được với Luận cương của Lê-nin về vấn đề dân tộc và thuộc địa thì đích Người cần tìm đã đạt được. Luận cương của Lê-nin đã chỉ ra những điều mà Người đang tìm, tức là chỉ có chủ nghĩa xã hội, chỉ có cách mạng vô sản mới là con đường giải phóng chúng ta.

Sau 30 năm bôn ba, ngày 28/01/1941, Nguyễn Ái Quốc trở về nước để trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh cách mạng. Người chỉ ra rằng, trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, con đường duy nhất phải theo là con đường cách mạng dân tộc dân chủ do Đảng tiên phong của giai cấp công nhân lãnh đạo đánh đổ đế quốc, thực dân, giành độc lập dân tộc, sau đó tiến lên thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội là sự vận dụng sáng tạo học thuyết Mác-Lênin, thể hiện tính quy luật của sự phát triển lịch sử của xã hội Việt Nam, trở thành quan điểm xuyên suốt trong toàn bộ tư tưởng và sự nghiệp cách mạng của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Đó chính là "Đường cách mệnh" cho dân tộc ta mà Người đã chọn. Thực tế lịch sử đã chứng minh sự lựa chọn đó là sự lựa chọn lịch sử, sự lựa chọn duy nhất đúng, không thể có sự lựa chọn thứ hai.

Dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh, lớp lớp thế hệ người Việt Nam đã vững bước trên con đường mà Người đã chọn. Đó là con đường của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, con đường mang tầm nhìn vượt thời gian đưa đất nước và dân tộc ta vượt qua biết bao khó khăn, thử thách, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, thực hiện công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thoát khỏi nước kém phát triển, từng bước tiến lên “sánh vai với các cường quốc năm châu”, thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

 

   Bất kì ai trong mỗi chúng ta có lẽ cũng đã đều trải qua quãng đời học trò. Dù ít hay nhiều thì những kỉ niệm khi còn ngồi trên ghế nhà trường sẽ luôn là hành trang cùng ta vững bước vào đời. Và một trong những người đồng hành quan trọng với chúng ta trong suốt quãng đời học sinh có lẽ là cô giáo chủ nhiệm.

Em nghe thầy đọc bao ngày

Tiếng thơ đỏ nắng xanh cây quê nhà

Những vần thơ trong trẻo của nhà thơ Trần Đăng Khoa đã gợi cho em biết bao cảm xúc về những ngày đầu mới đi học và nhớ đến cô giáo chủ nhiệm cấp 1 của mình.

   Cô giáo em tên là cô Thuý. Cô Thuý chủ nhiệm em năm lớp hai, có lẽ do còn quá nhỏ nên lúc đó em đã không nhớ rõ tên đầy đủ của cô là gì, chỉ nhớ mình luôn gọi cô bằng cái tên thân thương cô Thuý. Cô Thuý còn trẻ lắm, lúc chủ nhiệm lớp em có khi cô chỉ mới ra trường. Cô Thuý có nước da trắng, mái tóc đen dài với mái cắt bằng. Khuôn miệng cô xinh xắn lúc nào cũng chúm chím. Đôi mắt cô luôn rạng ngời tình yêu thương đối với học trò. Cô Thuý có vóc dáng cân đối, người hơi mảnh mai. Giọng nói cô trong trẻo nên chúng em ai cũng thích nghe cô giảng bài. 

    Mỗi tiết dạy của cô luôn chứa đựng những điều hấp dẫn và thú vị. Từ một đứa rất khó chịu với Văn học em trở nên thích thú và luôn chờ đợi mỗi tiết dạy của cô. Chính cô là người đã truyền lửa đam mê học Văn cho em. Nhìn cách dạy, cách truyền đạt trong mỗi lời thơ, câu chuyện, em cảm nhận được sức trẻ và sự nhiệt huyết của cô. Cô luôn bảo với lớp rằng: "Văn học là nhân học, mỗi bài văn luôn chứa đựng những giá trị và bài học trong cuộc sống". Với những người đồng nghiệp của mình, cô luôn hoà đồng và giúp đỡ mọi người, sự thân thiện ấy khiến các thầy cô trong trường đều bị chinh phục và yêu thương cô nhiều hơn.

      Một kỉ niệm với cô mà em không thể nào quên đó là vào ngày tổng kết kì 1 của năm. Sau khi trao tặng quà và tuyên dương cho các bạn có thành tích trong học kỳ vừa qua, cô gọi em lên và tặng cho em một món quà. Đó là một bộ quần áo mới tinh, lúc này, phân vân và do dự, em cúi mặt xuống, thưa cô:

- Dạ cô, con có đóng góp được gì cho lớp đâu mà được nhận quà ạ?

Cô mỉm cười hiền dịu rồi xoa đầu em bảo:

- Là thành viên của lớp ai cũng đóng góp phần mình vào tập thể con ạ. Cô rất hiểu suy nghĩ của con bây giờ, nhưng cô tin là con đã cố gắng rất nhiều trong kỳ học vừa qua. Qua tìm hiểu, cô biết được những khó khăn mà gia đình con đang trải qua, nhưng rồi nếu ta biết cố gắng, mọi người cùng yêu thương thì mọi chuyện sẽ tốt đẹp hơn con nhé.

Rồi cô tiếp lời:

- Con ạ, cô và cả lớp cùng gom góp, tặng còn bộ quần áo mang ngày đầu năm mới. Món quà tuy nhỏ nhưng là tấm lòng của mọi người. Còn hãy vui vẻ và nhận nó con nhé!

   Em hạnh phúc và xúc động khi được sống trong sự yêu thương và ấm áp mà mọi người dành cho mình. Có lẽ, suốt cuộc đời này, những nghĩ suy và cảm xúc lúc ấy em sẽ chẳng bao giờ quên được.

   Em đã từng nghĩ rằng sẽ chẳng có ai yêu thương mình như ba mẹ, người thân. Nhưng cho đến khi được tiếp xúc với người cô yêu quý ấy em mới nhận ra được tình yêu thương đến từ những điều bình dị quanh ta, những người gần gũi quanh mình.

   Bây giờ em đã trở thành một học sinh lớp bảy, nhưng em vẫn nhớ đến người giáo viên dạy mình năm lớp hai. Em thật sự yêu mến, kính trọng và rất khâm phục cô Thuý. Đến giờ em vẫn chưa thể về trường cũ thăm cô được. Em cảm thấy mình thật có lỗi khi ngày 20/11 không về thăm cô. Cô Thuý là người em yêu mến, kính trọng vì cô là giáo viên hết sức thương yêu học sinh. Em luôn mong cô được khoẻ mạnh, hạnh phúc, được học sinh yêu mến. Cô Thuý ơi, một ngày nào đó em sẽ về thăm cô.

 

Từ xưa đến này, người phụ nữ Việt Nam được biết đến với những phẩm chất tốt đẹp. Điều đó được thể hiện qua nhiều tác phẩm văn học, trong đó có “Người ngồi đợi trước hiên nhà” của Huỳnh Như Phương.

Nội dung của tác phẩm kể về cuộc đời của nhân vật chính - dì Bảy. Dượng Bảy và dì Bảy cưới nhau được một tháng, thì dượng phải lên đường ra Bắc tập kết. Ra miền Bắc rồi vào lại miền Nam chiến đấu, dượng Bảy vẫn liên lạc với gia đình. Dượng Bảy ngã xuống trong trận đánh ở Xuân Lộc, trên đường tiến vào Sài Gòn. Ngày hòa bình, dì Bảy đã qua tuổi bốn mươi. Vẫn có người đàn ông để ý đến dì, nhưng lòng dì không còn rung động. Dì Bảy năm nay tròn tám mươi tuổi, đang ngồi một mình đợi Tết.

Có thể thấy rằng, nhân vật dì Bảy mang những vẻ đẹp phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam - giàu đức hy sinh, tấm lòng thủy chung son sắc. Dượng Bảy và dì Bảy chỉ mới kết hôn được một tháng, đây là giai đoạn tình cảm vợ chồng vẫn còn mặn nồng, gắn bó. Dù vậy, dì Bảy vẫn chấp nhận để chồng tập kết ra bắc, đôi người đôi ngả. Ở đây, có thể thấy được sự hy sinh của dì xuất phát từ tấm lòng yêu quê hương, đất nước. Dì đã đặt lợi ích của đất nước lên trên hạnh phúc của cá nhân. Điều đó khiến người đọc thêm cảm phục trước tấm lòng của nhân vật này.

Không chỉ vậy, dì Bảy còn là một người phụ nữ hết mực thủy chung. Trong những năm xa cách, dì Bảy luôn giữ liên lạc với dượng Bảy, đợi chờ chồng trở về. Mỗi khi nhận được thư của chồng, dì lại cảm thấy hạnh phúc, hy vọng đến ngày được đoàn tụ. Hình ảnh khiến cho người đọc cảm thấy ấn tượng nhất đó chính là mỗi ngày, sau khi đi làm đồng về, dì lại ngồi trên bộ phản gõ ngoài hiên nhìn ra con ngõ, nơi ngày xưa dượng Bảy cùng đồng đội đến nhà xin trú quân. Dượng Bảy đã hy sinh, ngày hòa bình lặp lại, dì đã bốn mươi tuổi, nhưng vẫn có người đàn ông để ý đến dì. Dù vậy, lòng dì Bảy đã không còn rung động. Dì đã giữ tấm lòng thủy chung như vậy cho đến hết đời.

Ngay cả khi biết tin dượng Bảy qua đời, dì vẫn quyết định không tiến thêm bước nữa. Dì lầm lũi một mình, chăm mẹ già yếu trong ngôi nhà, “tiếp tục những bữa cơm vắng lặng như mười mấy năm trước. Và mỗi buổi chiều muộn, dì lại ra ngồi trước hiên nhà nhìn con đường kéo dài như nỗi chờ mong trong vô vọng”. Hình ảnh người đàn bà ấy khiến cho chúng ta càng thương cảm, yêu mến.

Cuộc sống hòa bình được đánh đổi bằng xương máu của biết bao thế hệ con người Việt Nam. Họ không chỉ hy sinh tuổi thanh xuân, mà còn cả tính mạng để đổi lấy độc lập cho đất nước, tự do cho nhân dân. Bởi vậy, khi được sống trong hòa bình, chúng ta cần biết trân trọng cuộc sống này, sống một cuộc đời tích cực và ý nghĩa. Đồng thời, mỗi người cần phải ghi nhớ công ơn của thế hệ đi trước, giữ gìn và xây dựng đất nước ngày càng phát triển, giàu đẹp hơn.