

Lâm Ngọc Khôi
Giới thiệu về bản thân



































Câu 1. Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) phân tích hình ảnh “mưa” trong bài thơ “Mưa Thuận Thành”. Hình ảnh “mưa” trong bài thơ Mưa Thuận Thành là hình ảnh xuyên suốt, vừa thực vừa ẩn dụ, vừa gần gũi vừa kỳ ảo. Mưa không chỉ là hiện tượng thiên nhiên mà còn mang linh hồn, cảm xúc, gắn liền với lịch sử, văn hóa và con người của vùng đất Thuận Thành. Mưa xuất hiện trên mái tóc cô gái, trên vai trần Ỷ Lan, trên bến Luy Lâu, trên mái chùa Dâu…, như một sợi dây vô hình kết nối quá khứ và hiện tại, trần tục và thiêng liêng. Mưa gợi nhắc đến vẻ đẹp nữ tính, mềm mại, e ấp nhưng cũng đầy ẩn ức, khát vọng. Những “hạt mưa chèo bẻo”, “hạt mưa hoa nhài”, “hạt mưa sành sứ” vừa gợi sự trong trẻo, tinh khiết, vừa gợi nỗi buồn man mác, nỗi chia lìa. Hình ảnh mưa trong bài thơ không chỉ miêu tả cảnh vật mà còn là tiếng lòng của thi sĩ, là biểu tượng cho tình yêu, nỗi nhớ, niềm tự hào và tâm hồn sâu lắng của người con Thuận Thành đối với quê hương giàu truyền thống văn hóa và lịch sử. --- Câu 2. Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) làm rõ sự tương đồng và khác biệt trong số phận của người phụ nữ xưa và nay. Trong suốt chiều dài lịch sử, người phụ nữ Việt Nam luôn giữ vai trò quan trọng trong gia đình và xã hội. Tuy nhiên, số phận của họ qua các thời kỳ lại có nhiều điểm tương đồng và khác biệt. Trước hết, sự tương đồng nổi bật nhất giữa người phụ nữ xưa và nay chính là phẩm chất cao đẹp. Dù ở thời nào, họ cũng mang trong mình đức hy sinh, tấm lòng yêu thương, sự tảo tần, chịu thương chịu khó. Người phụ nữ xưa gắn với hình ảnh “chị em Thúy Kiều”, “chị Dậu”, “Tấm” – những người chịu nhiều cay đắng nhưng vẫn giàu lòng nhân hậu, thủy chung. Ngày nay, họ tiếp nối những đức tính đó trong vai trò làm vợ, làm mẹ, vẫn là người giữ lửa gia đình, chăm lo, vun đắp hạnh phúc. Tuy nhiên, giữa hai thời kỳ cũng có những khác biệt rõ nét. Người phụ nữ xưa phải sống trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ, chịu nhiều ràng buộc, áp bức, không có quyền tự quyết cuộc đời. Họ bị xem nhẹ, bị gả bán, thậm chí trở thành công cụ cho các toan tính chính trị, kinh tế. Trái lại, người phụ nữ hiện nay sống trong một xã hội đề cao bình đẳng giới, có nhiều quyền lợi và cơ hội. Họ được học tập, làm việc, cống hiến, khẳng định bản thân trên nhiều lĩnh vực. Từ mái ấm gia đình đến thương trường, chính trị, khoa học, văn hóa…, hình ảnh người phụ nữ hiện đại xuất hiện tự tin, chủ động, bản lĩnh hơn bao giờ hết. Dù vậy, không thể phủ nhận rằng bên cạnh những bước tiến, người phụ nữ ngày nay vẫn đối diện nhiều áp lực. Họ phải cân bằng giữa sự nghiệp và gia đình, gánh vác nhiều trách nhiệm, đôi khi còn gặp định kiến, bất bình đẳng ngầm trong công việc, thu nhập. Điều đó cho thấy, dù thời thế thay đổi, hành trình tìm kiếm hạnh phúc và khẳng định giá trị của người phụ nữ vẫn đầy thử thách. Tóm lại, số phận người phụ nữ xưa và nay có những điểm chung về phẩm chất và khát vọng, nhưng khác biệt về quyền lợi, vị thế xã hội và điều kiện sống. Để phát huy vai trò, giá trị của người phụ nữ, xã hội cần tiếp tục đề cao bình đẳng giới, tạo điều kiện cho họ phát triển toàn diện, vừa giữ gìn những phẩm chất truyền thống, vừa đáp ứng yêu cầu thời đại.
Câu 1. Xác định thể thơ của bài thơ trên. Bài thơ Mưa Thuận Thành được viết theo thể thơ tự do. Các câu thơ có độ dài không đều, không tuân theo niêm luật hay vần cố định, nhưng vẫn giàu nhạc điệu và cảm xúc.
Câu 2. Hình ảnh tượng trưng được thể hiện xuyên suốt trong bài thơ là gì? Hình ảnh tượng trưng được thể hiện xuyên suốt trong bài thơ là hình ảnh “mưa”. Mưa xuất hiện trong hầu hết các câu thơ, được gắn liền với nhiều không gian, thời gian, con người, sự kiện lịch sử và văn hóa của vùng đất Thuận Thành.
Câu 3. Chọn một hình ảnh thơ mà em thấy ấn tượng và nêu cảm nghĩ của em về hình ảnh đó. Em ấn tượng với hình ảnh: “Hạt mưa sành sứ / Vỡ gạch Bát Tràng / Hai mảnh đa mang”. Hình ảnh này gợi lên cảm giác vừa mong manh, vừa đa cảm. Hạt mưa như giọt lệ, chạm vào gạch Bát Tràng – sản phẩm đặc trưng của làng gốm nổi tiếng – khiến gạch “vỡ” thành hai mảnh, ẩn dụ cho những nỗi niềm chia lìa, chất chứa, những phận người đa đoan. Câu thơ giàu chất tạo hình, gợi xúc cảm sâu lắng.
Câu 4. Cấu tứ của bài thơ được thể hiện như thế nào? Cấu tứ bài thơ theo mạch chảy của hình ảnh mưa, đi qua các không gian, địa danh văn hóa lịch sử của Thuận Thành (Thiên Thai, Phủ Chúa, Luy Lâu, Bát Tràng, Chùa Dâu…). Mỗi đoạn thơ là một lát cắt, một bức tranh gợi nhắc về vẻ đẹp, lịch sử, văn hóa của mảnh đất, đồng thời kết nối mưa với tâm trạng con người: từ vui tươi, e ấp đến trầm buồn, da diết.
Câu 5. Phát biểu về đề tài, chủ đề của bài thơ. Đề tài của bài thơ là miêu tả vẻ đẹp thiên nhiên (mưa) gắn liền với không gian văn hóa – lịch sử của vùng đất Thuận Thành. Chủ đề của bài thơ là nỗi nhớ thương da diết, niềm tự hào và tình yêu sâu đậm đối với quê hương Thuận Thành qua những hình ảnh văn hóa, lịch sử, con người gắn liền với mưa.
Bài văn nghị luận: Lí tưởng sống của thế hệ trẻ trong cuộc sống hôm nay Trong xã hội hiện đại với nhịp sống nhanh, nhiều cơ hội nhưng cũng đầy thách thức, việc xác định và theo đuổi một lí tưởng sống đúng đắn là điều vô cùng quan trọng đối với thế hệ trẻ. Lí tưởng sống không chỉ là kim chỉ nam dẫn đường, mà còn là động lực để mỗi cá nhân vươn lên, sống có ý nghĩa và cống hiến cho cộng đồng. Vậy thế hệ trẻ hôm nay cần có lí tưởng sống như thế nào để không lạc hướng giữa vòng xoáy của cuộc sống thực dụng và biến động? Lí tưởng sống là những mục tiêu, giá trị sống cao đẹp mà con người theo đuổi suốt đời. Với thế hệ trẻ – những chủ nhân tương lai của đất nước – lí tưởng sống cần gắn với hoài bão vươn lên, phát triển bản thân và góp phần xây dựng xã hội tốt đẹp hơn. Đó có thể là khát vọng học tập, lao động sáng tạo, sống tử tế, trách nhiệm với bản thân, gia đình và đất nước. Một người trẻ có lí tưởng sống sẽ không ngừng nỗ lực hoàn thiện bản thân, vượt qua khó khăn, dám nghĩ, dám làm và biết sống vì cộng đồng. Trong thực tế, nhiều bạn trẻ ngày nay đã và đang sống rất đẹp, rất có lí tưởng. Họ không chỉ cố gắng học tập để chạm đến ước mơ mà còn tích cực tham gia các hoạt động thiện nguyện, môi trường, bảo vệ quyền lợi cho những người yếu thế… Họ hiểu rằng sống không chỉ để nhận mà còn để cho đi. Những con người như vậy chính là niềm hy vọng cho tương lai của đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn không ít bạn trẻ sống mơ hồ, thiếu mục tiêu rõ ràng, dễ bị lôi kéo bởi lối sống hưởng thụ, thực dụng, ngại khó, ngại khổ. Một bộ phận khác thì sống ảo, chạy theo hào nhoáng bề ngoài mà quên đi việc rèn luyện nhân cách và tri thức. Những lối sống này khiến người trẻ dễ lạc hướng, đánh mất giá trị bản thân và thụ động trước cuộc sống. Chính vì thế, việc xác định lí tưởng sống là việc làm cấp thiết. Để có lí tưởng sống đúng đắn, người trẻ cần rèn luyện bản lĩnh, sống có trách nhiệm, biết chọn lọc thông tin, học hỏi từ thực tế và không ngừng trau dồi tri thức, đạo đức. Gia đình, nhà trường và xã hội cũng cần tạo điều kiện, định hướng và khơi gợi cho thế hệ trẻ những giá trị sống tích cực, nhân văn. Tóm lại, lí tưởng sống là ngọn lửa soi sáng hành trình trưởng thành của mỗi người trẻ. Khi thế hệ trẻ sống có lí tưởng, xã hội sẽ có thêm nhiều công dân tốt, đất nước sẽ ngày càng phát triển. Mỗi người trẻ hãy tự hỏi mình: “Tôi sống để làm gì?” và từ đó tìm ra con đường để sống có ích, sống xứng đáng với tuổi trẻ đầy nhiệt huyết và hi vọng.
Trong đoạn trích Trai anh hùng, gái thuyền quyên, Nguyễn Du đã khắc họa Từ Hải như một hình tượng anh hùng lí tưởng, phi thường và đầy khí phách. Ngay từ lần xuất hiện, Từ Hải hiện lên với vẻ ngoài oai phong lẫm liệt: “Râu hùm, hàm én, mày ngài”, “vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”. Không chỉ có ngoại hình khác thường, ông còn mang phong thái tự do, phóng khoáng: “Đội trời, đạp đất ở đời”, “Giang hồ quen thú vẫy vùng”. Từ Hải là hiện thân của tài năng, chí khí và khát vọng tung hoành, lập nên nghiệp lớn. Bên cạnh đó, ông cũng là người trọng nghĩa, biết trân trọng tài sắc và khí phách của Thúy Kiều, từ đó chủ động nên duyên cùng nàng bằng sự đồng điệu tâm hồn, không vụ lợi hay tạm bợ. Với bút pháp lí tưởng hóa, Nguyễn Du không chỉ xây dựng một mẫu hình anh hùng lý tưởng mà còn gửi gắm khát vọng về một con người có thể thay đổi số phận, đem lại công bằng và hạnh phúc cho người tài hoa như Thúy Kiều.
Nguyễn Du sáng tạo khi lí tưởng hóa Từ Hải, biến ông thành anh hùng phi thường, mang tầm vóc sử thi (“đội trời đạp đất”, “giang hồ vẫy vùng”…). Trong khi đó, Thanh Tâm Tài Nhân miêu tả Từ Hải đời thường hơn, là người từng đi thi, buôn bán, thích giao du. => Nguyễn Du nâng tầm Từ Hải thành hình tượng lí tưởng, thể hiện khát vọng công lý.
Từ Hải được khắc họa bằng bút pháp lí tưởng hóa. Tác dụng: Làm nổi bật vẻ đẹp phi thường, tài trí và khí phách anh hùng. Thể hiện khát vọng công lý, tự do của tác giả. Tôn vinh mối tình đẹp giữa Thúy Kiều và Từ Hải.
Những từ ngữ, hình ảnh miêu tả Từ Hải: Ngoại hình: “Râu hùm, hàm én, mày ngài”, “vai năm tấc rộng, thân mười thước cao” Khí chất: “Đường đường một đấng anh hào”, “Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài” Phong thái: “Đội trời, đạp đất ở đời” Lý tưởng: “Giang hồ quen thú vẫy vùng”, “Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo” Nhận xét về thái độ của tác giả: Nguyễn Du thể hiện thái độ ngưỡng mộ, trân trọng đối với Từ Hải. Ông khắc họa Từ Hải như một anh hùng lý tưởng, có cả tài lẫn đức, mang chí lớn và phong thái phi thường, khác hẳn với những người đàn ông tầm thường khác từng xuất hiện trong đời Kiều.
Một số điển tích, điển cố trong văn bản: 1. Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo – dẫn tích Hoàng Sào, nói chí lớn tung hoành. 2. Mắt xanh – ý chỉ sự quý trọng (theo tích Nguyên Tịch). 3. Tấn Dương thấy mây rồng – ngụ ý Từ Hải sẽ lập nghiệp lớn như Đường Cao Tổ. 4. Trần ai – chỉ cuộc đời trần thế đầy gian truân. 5. Sánh phượng, cưỡi rồng – chỉ mối lương duyên đẹp, xứng đôi.
Văn bản trên kể về cuộc gặp gỡ và nên duyên giữa Thúy Kiều và Từ Hải – một trang anh hùng cái thế. Trong một đêm trăng thanh gió mát, Từ Hải – người có tướng mạo oai phong, tài năng hơn người – đến thăm và nghe danh tiếng Thúy Kiều. Hai người gặp nhau, trò chuyện, cảm mến nhau từ lần đầu, thấu hiểu tấm lòng tri kỷ. Sau đó, Từ Hải từ chối tiền bạc lễ nghĩa thông thường, đưa Kiều về sắp xếp nơi ở, chính thức nên duyên với nàng. Văn bản thể hiện cuộc tình đẹp, hào sảng giữa anh hùng và giai nhân, ca ngợi sự hòa hợp giữa chí lớn của Từ Hải và tấm lòng tinh tế, thủy chung của Thúy Kiều.