

Dương Tài Phú
Giới thiệu về bản thân



































**Lí tưởng sống của thế hệ trẻ trong cuộc sống hôm nay** Trong xã hội hiện đại, sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ, nền kinh tế và các giá trị văn hóa đã tác động mạnh mẽ đến thế hệ trẻ. Lí tưởng sống của thế hệ trẻ ngày nay, do đó, cũng có sự biến chuyển so với các thế hệ trước. Có người cho rằng, thế hệ trẻ hiện nay sống thực dụng, ít quan tâm đến lý tưởng cao cả và lý tưởng sống chỉ còn là những khái niệm mơ hồ. Tuy nhiên, theo tôi, lí tưởng sống của thế hệ trẻ hiện nay không phải mất đi, mà chỉ chuyển biến theo những giá trị phù hợp với thời đại. Trước hết, lí tưởng sống của thế hệ trẻ hôm nay đang hướng tới sự phát triển cá nhân, khát vọng thành công và khẳng định bản thân. Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và internet, thế giới mở rộng vô cùng, giúp cho giới trẻ có cơ hội tiếp cận thông tin, học hỏi và phát triển năng lực một cách dễ dàng hơn bao giờ hết. Nhiều bạn trẻ đang nuôi dưỡng khát vọng khởi nghiệp, xây dựng sự nghiệp vững vàng, mong muốn thành công và làm chủ cuộc sống của mình. Họ không chỉ muốn có một công việc ổn định mà còn tìm cách thể hiện bản thân, cống hiến cho cộng đồng và xã hội. Đây là một lí tưởng sống hợp lý trong bối cảnh nền kinh tế thị trường phát triển, khi mà mỗi cá nhân phải tự tạo dựng tương lai và tìm kiếm cơ hội từ chính sức lực của mình. Tuy nhiên, cũng có những quan điểm cho rằng thế hệ trẻ ngày nay quá chú trọng đến tiền bạc, vật chất và lợi ích cá nhân, thiếu đi những lý tưởng cao đẹp như lý tưởng cống hiến cho xã hội, giúp đỡ cộng đồng. Thực tế, không thể phủ nhận rằng một bộ phận không nhỏ giới trẻ đang chạy đua với đồng tiền, sống vì những giá trị vật chất trước mắt mà quên đi những giá trị tinh thần, đạo đức. Nhưng điều đó không có nghĩa là toàn bộ thế hệ trẻ không có lý tưởng sống đúng đắn. Thực tế, cũng có rất nhiều bạn trẻ dấn thân vào những công việc mang tính chất xã hội, như hoạt động tình nguyện, bảo vệ môi trường, tham gia các tổ chức phi lợi nhuận, mong muốn tạo ra những thay đổi tích cực trong cộng đồng và xã hội. Một xu hướng đáng chú ý hiện nay là sự chú trọng đến sự phát triển bền vững và sức khỏe tinh thần. Thế hệ trẻ hôm nay không chỉ quan tâm đến công việc, thành công mà còn nhận thức rõ về tầm quan trọng của việc chăm sóc sức khỏe tinh thần, đời sống cảm xúc. Họ tìm kiếm sự cân bằng giữa công việc và cuộc sống, tìm cách xây dựng mối quan hệ lành mạnh, yêu thương bản thân và nâng cao chất lượng cuộc sống. Các hoạt động như yoga, thiền định, du lịch để tìm kiếm sự thư giãn hay tham gia các cộng đồng trực tuyến để chia sẻ, học hỏi đã trở thành một phần quan trọng trong lối sống của nhiều người trẻ. Điều này cho thấy, thế hệ trẻ không chỉ tìm kiếm thành công về vật chất mà còn hướng tới sự an yên, hạnh phúc trong tâm hồn. Thế hệ trẻ hiện nay còn rất nhạy bén với những vấn đề toàn cầu như bảo vệ môi trường, chống lại biến đổi khí hậu, bảo vệ quyền lợi của các nhóm yếu thế trong xã hội. Những phong trào bảo vệ quyền con người, bình đẳng giới, bảo vệ động vật và môi trường sống ngày càng được nhiều bạn trẻ tham gia và lên tiếng. Đây là minh chứng rõ ràng cho thấy, lý tưởng sống của thế hệ trẻ hiện đại không chỉ dừng lại ở những tham vọng cá nhân mà còn gắn với những vấn đề lớn lao của nhân loại. Tóm lại, lí tưởng sống của thế hệ trẻ hôm nay không phải là mất đi mà là chuyển biến phù hợp với hoàn cảnh xã hội và yêu cầu thời đại. Họ không chỉ tìm kiếm thành công, vật chất mà còn chú trọng đến phát triển bản thân, chăm sóc sức khỏe tinh thần và đóng góp cho cộng đồng. Mặc dù có những khó khăn, thách thức trong việc xác định rõ ràng lý tưởng sống trong thời đại biến động, nhưng tôi tin rằng thế hệ trẻ vẫn luôn có những lý tưởng cao đẹp, có khả năng đóng góp tích cực cho xã hội và tạo ra những thay đổi tốt đẹp.
Từ Hải trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du là một hình tượng anh hùng lý tưởng, mang đậm khát vọng tự do, phóng khoáng và tình yêu thương đối với Kiều. Khác với những kẻ anh hùng chỉ nổi bật qua sức mạnh, tài năng, Từ Hải còn được Nguyễn Du khắc họa như một người có lý tưởng sống rõ ràng, có tâm hồn cao thượng. Mặc dù xuất thân từ giang hồ, nhưng Từ Hải không phải là người coi trọng tiền tài hay danh vọng mà luôn khao khát một cuộc sống tự do, công bằng. Hành động cứu Kiều khỏi cảnh éo le, sự đối xử đầy yêu thương và tôn trọng với nàng, cho thấy Từ Hải không chỉ là một người anh hùng trên chiến trường, mà còn là một người có trái tim nhân hậu. Tuy nhiên, bi kịch xảy ra khi Từ Hải ra đi mãi mãi, để lại Kiều trong cảnh cô đơn. Cái chết của Từ Hải không chỉ là sự mất mát của Kiều mà còn là sự tan vỡ của lý tưởng anh hùng trong xã hội đầy bất công. Chính điều này làm cho hình ảnh Từ Hải trở nên sâu sắc, phản ánh sự đấu tranh giữa lý tưởng và thực tế, giữa tự do cá nhân và số phận nghiệt ngã.
Trong khi Thanh Tâm tài nhân miêu tả Từ Hải là một hảo hán phong trần, giàu có và nổi danh trong giới giang hồ, Nguyễn Du lại sử dụng một cách miêu tả tinh tế và sâu sắc hơn về nhân vật này, không chỉ qua vẻ ngoài mà còn qua phẩm chất nội tâm. Một trong những sự sáng tạo đáng chú ý của Nguyễn Du so với Thanh Tâm tài nhân là việc ông khắc họa Từ Hải không chỉ là một anh hùng giang hồ, mà còn là một người có lý tưởng, có tầm nhìn về cuộc đời, và đặc biệt là có lòng thương người và tình cảm với Thúy Kiều. Nguyễn Du miêu tả Từ Hải với những nét tâm lý phức tạp, đặc biệt trong cảnh "Từ Hải gặp Kiều", nơi ông thể hiện sự trân trọng và tình yêu chân thành đối với Kiều, khác với cái nhìn sơ lược của Thanh Tâm tài nhân. Cụ thể, Nguyễn Du đã không chỉ nhấn mạnh Từ Hải là một người tài giỏi, giàu có, mà còn chú trọng đến tâm hồn và khát vọng của nhân vật này. Từ Hải trong "Truyện Kiều" có lý tưởng, khao khát một cuộc sống tự do, phóng khoáng, và nhất là một lòng yêu thương, bảo vệ Kiều. Trong khi Thanh Tâm tài nhân chỉ miêu tả Từ Hải là một hảo hán với sự nghiệp bề ngoài, Nguyễn Du đã đưa vào trong nhân vật những yếu tố như tình cảm, lòng chung thủy và khát vọng chinh phục số phận, qua đó làm nổi bật phẩm chất anh hùng lý tưởng của Từ Hải. Sự sáng tạo này thể hiện rõ trong các câu thơ của Nguyễn Du, đặc biệt là hình ảnh Từ Hải trong giây phút cùng Kiều lên đường làm lại cuộc đời, nơi ông không chỉ là người chỉ huy, mà còn là người đồng hành đầy lòng kiên định và quyết tâm.
Tổng thể, thái độ của Nguyễn Du dành cho nhân vật Từ Hải là rất tích cực, thể hiện sự tôn trọng, khâm phục và coi trọng tài năng và chí lớn của nhân vật này.rên thực tế đời thường Trai anh hùng, gái thuyền quyên[1] Lần thâu gió mát trăng thanh, Bỗng đâu có khách biên đình[2] sang chơi. Râu hùn, hàm én, mày ngài[3], Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao. Đường đường một đấng anh hào[4], Côn quyền[5] hơn sức, lược thao[6] gồm tài. Đội trời, đạp đất ở đời, Họ Từ, tên Hải, vốn người Việt Đông[7]. Giang hồ quen thú vẫy vùng, Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo[8]. Qua chơi nghe tiếng nàng kiều, Tấm lòng nhi nữ[9] cũng xiêu anh hùng. Thiếp danh đưa đến lầu hồng, Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng ưa. Từ rằng: “tâm phúc tương cờ[10], Phải người trăng gió vật vờ hay sao? Bây giờ nghe tiếng má đào, Mắt xanh[11] chẳng để ai vào, có không?” Thưa rằng: “Lượng cả bao dong, Tấn Dương[12] được thấy mây rồng có phen. Rộng thương cỏ nội, hoa hèn, Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau!” Nghe lời vừa ý, gật đầu, Cười rằng: “Tri kỉ trước sau mấy người Khen cho con mắt tinh đời, Anh hùng đoán giữa trần ai[13] mới già! Một lời đã biết đến ta, Muôn chung nghìn tứ, cũng là có nhau!” Hai bên ý hợp, tâm đầu[14], Khi thân, chẳng lọ là cầu mới thân! Ngỏ lời nói với băng nhân[15], Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn[16]. Buồng riêng, sửa chốn thanh nhàn, Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên. Trai anh hùng, gái thuyền quyên[17], Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng[18]. (Trích Truyện Kiều, Nguyễn Du, trang 158 – 162) [1] Nhan đề do người biên soạn đặt. [2] Biên đình: nơi biên ải xa xôi. [3] Râu hùm, hàm én, mày ngài: tướng mạo của người anh hùng: râu dữ như râu hùm, hàm mở rộng như chim én, mày cong và to như con tằm. [4] Anh hào: anh hùng hào kiệt. [5] Côn quyền: môn võ đánh bằng tay. [6] Lược thao: mưu lược về tài dùng binh. [7] Việt Đông: chỉ tỉnh Quảng Đông ở phía đông sông Việt, nên gọi là Việt Đông. [8] Gươm đàn … một chèo: Hoàng Sào, một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa đời Đường, có câu thơ: “Bán kiên cung kiếm băng thiên túng, nhất trạo giang sơn tận địa tuy” (Chỉ nửa vai cung kiếm mà tung hoành khắp cả gầm trời, chỉ một mái chèo mà đi khắp cả non sông. [9] Tấm lòng nhi nữ: ý nói người đẹp. [10] Tâm phúc tương cờ: tương cờ tức tương kì. Lòng dạ hứa hẹn với nhau. Từ Hải muốn cùng Kiều kết thành đôi lứa tri kỉ chứ không phải là yêu đương trăng gió tạm bợ. [11] Mắt xanh: Nguyên Tịch đời Tấn trọng ai thì nhìn bằng con mắt xanh, khinh ai thì nhìn bằng con mắt trắng. Câu này ý nói Từ Hải hỏi Kiều: Xưa nay, nàng chưa hề xem trọng ai có phải không. [12] Tấn Dương: Tên đất nơi Đường Cao Tổ khởi binh đánh nhà Tùy, dựng nên đế nghiệp. Câu này ý nói Thúy Kiều tin tưởng Từ Hải là Từ hải sẽ nên nghiệp đế vương. [13] Trần ai: bụi bặm, chỉ lúc người anh hùng còn ẩn náu, chưa có danh vị gì để phân biệt với người thường. [14] Ý hợp, tâm đầu: hợp ý nhau, có những tình cảm và các suy nghĩ như nhau. [15] Băng nhân: người làm mối trong việc hôn nhân. [16] Nguyên ngân: số tiền bỏ ra khi trước; phát hoàn: đưa trả lại. [17] Thuyền quyên: người con gái đẹp. [18] Sánh phượng, cưỡi rồng: xưa Kính Trọng, nước Tần được quan đại phu nước Tề gả con gái cho, trong quẻ bói được câu: “Phượng hoàng vu phi…” (Chim phượng hoàng cùng bay). Đời Đông Hán, Hoàng Hiến và Lý Ung là hai người có danh vọng, cùng lấy con gái Hoàn Yến, người đời khen hai con gái Hoàn Yến đều cưỡi rồng. Câu này ý nói Thúy Kiều và Từ Hải đẹp duyên với nhau. ChatGPT đã nói: Nhân vật Từ Hải trong đoạn trích được Nguyễn Du khắc họa bằng bút pháp lí tưởng hóa và lãng mạn. Bút pháp này thể hiện rõ qua hình ảnh, ngoại hình, tính cách và lý tưởng sống của Từ Hải – tất cả đều được nâng tầm vượt lên trên thực tế đời thường. Phân tích tác dụng của bút pháp lí tưởng hóa và lãng mạn: Làm nổi bật hình tượng anh hùng tầm vóc phi thường: Từ Hải hiện lên với ngoại hình kỳ vĩ, oai phong: "Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao", "râu hùm, hàm én, mày ngài". Đây là kiểu tướng mạo chỉ thấy trong văn học cổ điển khi miêu tả các bậc anh hùng. Nguyễn Du không miêu tả Từ Hải như người trần mắt thịt mà như một nhân vật sử thi, mang dáng vóc thần thoại: "Đội trời đạp đất ở đời". Ca ngợi khí chất và lý tưởng anh hùng: Từ Hải là người có chí lớn, sống ngang tàng, chuộng tự do: "Giang hồ quen thú vẫy vùng", "côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài". Hình ảnh Từ Hải như hiện thân cho lý tưởng tự do, công lý, là “người cứu tinh” cho Kiều, đại diện cho khát vọng thoát khỏi cường quyền và bất công trong xã hội phong kiến. Làm nền cho mối tình đẹp mang màu sắc cổ tích giữa Thúy Kiều và Từ Hải: Cuộc gặp gỡ của hai người được mô tả đầy lãng mạn và tài hoa: "Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng ưa", "trai anh hùng, gái thuyền quyên". Mối duyên của họ không tầm thường mà như duyên trời định, có chiều sâu về tri kỷ chứ không chỉ là ái tình đơn thuần. Kết luận: Qua bút pháp lí tưởng hóa và lãng mạn, Nguyễn Du đã xây dựng một hình tượng Từ Hải – người anh hùng lý tưởng, không chỉ góp phần giải thoát và tôn vinh Thúy Kiều, mà còn gửi gắm khát vọng công lý, tự do và tình yêu đẹp đẽ giữa đời sống thực tại đầy ngang trái. Điều này làm cho hình tượng Từ Hải trở nên sống động và đáng ngưỡng mộ trong lòng người đọc.
Tổng thể, thái độ của Nguyễn Du dành cho nhân vật Từ Hải là rất tích cực, thể hiện sự tôn trọng, khâm phục và coi trọng tài năng và chí lớn của nhân vật này.rên thực tế đời thường Trai anh hùng, gái thuyền quyên[1] Lần thâu gió mát trăng thanh, Bỗng đâu có khách biên đình[2] sang chơi. Râu hùn, hàm én, mày ngài[3], Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao. Đường đường một đấng anh hào[4], Côn quyền[5] hơn sức, lược thao[6] gồm tài. Đội trời, đạp đất ở đời, Họ Từ, tên Hải, vốn người Việt Đông[7]. Giang hồ quen thú vẫy vùng, Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo[8]. Qua chơi nghe tiếng nàng kiều, Tấm lòng nhi nữ[9] cũng xiêu anh hùng. Thiếp danh đưa đến lầu hồng, Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng ưa. Từ rằng: “tâm phúc tương cờ[10], Phải người trăng gió vật vờ hay sao? Bây giờ nghe tiếng má đào, Mắt xanh[11] chẳng để ai vào, có không?” Thưa rằng: “Lượng cả bao dong, Tấn Dương[12] được thấy mây rồng có phen. Rộng thương cỏ nội, hoa hèn, Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau!” Nghe lời vừa ý, gật đầu, Cười rằng: “Tri kỉ trước sau mấy người Khen cho con mắt tinh đời, Anh hùng đoán giữa trần ai[13] mới già! Một lời đã biết đến ta, Muôn chung nghìn tứ, cũng là có nhau!” Hai bên ý hợp, tâm đầu[14], Khi thân, chẳng lọ là cầu mới thân! Ngỏ lời nói với băng nhân[15], Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn[16]. Buồng riêng, sửa chốn thanh nhàn, Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên. Trai anh hùng, gái thuyền quyên[17], Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng[18]. (Trích Truyện Kiều, Nguyễn Du, trang 158 – 162) [1] Nhan đề do người biên soạn đặt. [2] Biên đình: nơi biên ải xa xôi. [3] Râu hùm, hàm én, mày ngài: tướng mạo của người anh hùng: râu dữ như râu hùm, hàm mở rộng như chim én, mày cong và to như con tằm. [4] Anh hào: anh hùng hào kiệt. [5] Côn quyền: môn võ đánh bằng tay. [6] Lược thao: mưu lược về tài dùng binh. [7] Việt Đông: chỉ tỉnh Quảng Đông ở phía đông sông Việt, nên gọi là Việt Đông. [8] Gươm đàn … một chèo: Hoàng Sào, một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa đời Đường, có câu thơ: “Bán kiên cung kiếm băng thiên túng, nhất trạo giang sơn tận địa tuy” (Chỉ nửa vai cung kiếm mà tung hoành khắp cả gầm trời, chỉ một mái chèo mà đi khắp cả non sông. [9] Tấm lòng nhi nữ: ý nói người đẹp. [10] Tâm phúc tương cờ: tương cờ tức tương kì. Lòng dạ hứa hẹn với nhau. Từ Hải muốn cùng Kiều kết thành đôi lứa tri kỉ chứ không phải là yêu đương trăng gió tạm bợ. [11] Mắt xanh: Nguyên Tịch đời Tấn trọng ai thì nhìn bằng con mắt xanh, khinh ai thì nhìn bằng con mắt trắng. Câu này ý nói Từ Hải hỏi Kiều: Xưa nay, nàng chưa hề xem trọng ai có phải không. [12] Tấn Dương: Tên đất nơi Đường Cao Tổ khởi binh đánh nhà Tùy, dựng nên đế nghiệp. Câu này ý nói Thúy Kiều tin tưởng Từ Hải là Từ hải sẽ nên nghiệp đế vương. [13] Trần ai: bụi bặm, chỉ lúc người anh hùng còn ẩn náu, chưa có danh vị gì để phân biệt với người thường. [14] Ý hợp, tâm đầu: hợp ý nhau, có những tình cảm và các suy nghĩ như nhau. [15] Băng nhân: người làm mối trong việc hôn nhân. [16] Nguyên ngân: số tiền bỏ ra khi trước; phát hoàn: đưa trả lại. [17] Thuyền quyên: người con gái đẹp. [18] Sánh phượng, cưỡi rồng: xưa Kính Trọng, nước Tần được quan đại phu nước Tề gả con gái cho, trong quẻ bói được câu: “Phượng hoàng vu phi…” (Chim phượng hoàng cùng bay). Đời Đông Hán, Hoàng Hiến và Lý Ung là hai người có danh vọng, cùng lấy con gái Hoàn Yến, người đời khen hai con gái Hoàn Yến đều cưỡi rồng. Câu này ý nói Thúy Kiều và Từ Hải đẹp duyên với nhau. ChatGPT đã nói: Nhân vật Từ Hải trong đoạn trích được Nguyễn Du khắc họa bằng bút pháp lí tưởng hóa và lãng mạn. Bút pháp này thể hiện rõ qua hình ảnh, ngoại hình, tính cách và lý tưởng sống của Từ Hải – tất cả đều được nâng tầm vượt lên trên thực tế đời thường. Phân tích tác dụng của bút pháp lí tưởng hóa và lãng mạn: Làm nổi bật hình tượng anh hùng tầm vóc phi thường: Từ Hải hiện lên với ngoại hình kỳ vĩ, oai phong: "Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao", "râu hùm, hàm én, mày ngài". Đây là kiểu tướng mạo chỉ thấy trong văn học cổ điển khi miêu tả các bậc anh hùng. Nguyễn Du không miêu tả Từ Hải như người trần mắt thịt mà như một nhân vật sử thi, mang dáng vóc thần thoại: "Đội trời đạp đất ở đời". Ca ngợi khí chất và lý tưởng anh hùng: Từ Hải là người có chí lớn, sống ngang tàng, chuộng tự do: "Giang hồ quen thú vẫy vùng", "côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài". Hình ảnh Từ Hải như hiện thân cho lý tưởng tự do, công lý, là “người cứu tinh” cho Kiều, đại diện cho khát vọng thoát khỏi cường quyền và bất công trong xã hội phong kiến. Làm nền cho mối tình đẹp mang màu sắc cổ tích giữa Thúy Kiều và Từ Hải: Cuộc gặp gỡ của hai người được mô tả đầy lãng mạn và tài hoa: "Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng ưa", "trai anh hùng, gái thuyền quyên". Mối duyên của họ không tầm thường mà như duyên trời định, có chiều sâu về tri kỷ chứ không chỉ là ái tình đơn thuần. Kết luận: Qua bút pháp lí tưởng hóa và lãng mạn, Nguyễn Du đã xây dựng một hình tượng Từ Hải – người anh hùng lý tưởng, không chỉ góp phần giải thoát và tôn vinh Thúy Kiều, mà còn gửi gắm khát vọng công lý, tự do và tình yêu đẹp đẽ giữa đời sống thực tại đầy ngang trái. Điều này làm cho hình tượng Từ Hải trở nên sống động và đáng ngưỡng mộ trong lòng người đọc.
Tổng thể, thái độ của Nguyễn Du dành cho nhân vật Từ Hải là rất tích cực, thể hiện sự tôn trọng, khâm phục và coi trọng tài năng và chí lớn của nhân vật này.rên thực tế đời thường Trai anh hùng, gái thuyền quyên[1] Lần thâu gió mát trăng thanh, Bỗng đâu có khách biên đình[2] sang chơi. Râu hùn, hàm én, mày ngài[3], Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao. Đường đường một đấng anh hào[4], Côn quyền[5] hơn sức, lược thao[6] gồm tài. Đội trời, đạp đất ở đời, Họ Từ, tên Hải, vốn người Việt Đông[7]. Giang hồ quen thú vẫy vùng, Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo[8]. Qua chơi nghe tiếng nàng kiều, Tấm lòng nhi nữ[9] cũng xiêu anh hùng. Thiếp danh đưa đến lầu hồng, Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng ưa. Từ rằng: “tâm phúc tương cờ[10], Phải người trăng gió vật vờ hay sao? Bây giờ nghe tiếng má đào, Mắt xanh[11] chẳng để ai vào, có không?” Thưa rằng: “Lượng cả bao dong, Tấn Dương[12] được thấy mây rồng có phen. Rộng thương cỏ nội, hoa hèn, Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau!” Nghe lời vừa ý, gật đầu, Cười rằng: “Tri kỉ trước sau mấy người Khen cho con mắt tinh đời, Anh hùng đoán giữa trần ai[13] mới già! Một lời đã biết đến ta, Muôn chung nghìn tứ, cũng là có nhau!” Hai bên ý hợp, tâm đầu[14], Khi thân, chẳng lọ là cầu mới thân! Ngỏ lời nói với băng nhân[15], Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn[16]. Buồng riêng, sửa chốn thanh nhàn, Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên. Trai anh hùng, gái thuyền quyên[17], Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng[18]. (Trích Truyện Kiều, Nguyễn Du, trang 158 – 162) [1] Nhan đề do người biên soạn đặt. [2] Biên đình: nơi biên ải xa xôi. [3] Râu hùm, hàm én, mày ngài: tướng mạo của người anh hùng: râu dữ như râu hùm, hàm mở rộng như chim én, mày cong và to như con tằm. [4] Anh hào: anh hùng hào kiệt. [5] Côn quyền: môn võ đánh bằng tay. [6] Lược thao: mưu lược về tài dùng binh. [7] Việt Đông: chỉ tỉnh Quảng Đông ở phía đông sông Việt, nên gọi là Việt Đông. [8] Gươm đàn … một chèo: Hoàng Sào, một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa đời Đường, có câu thơ: “Bán kiên cung kiếm băng thiên túng, nhất trạo giang sơn tận địa tuy” (Chỉ nửa vai cung kiếm mà tung hoành khắp cả gầm trời, chỉ một mái chèo mà đi khắp cả non sông. [9] Tấm lòng nhi nữ: ý nói người đẹp. [10] Tâm phúc tương cờ: tương cờ tức tương kì. Lòng dạ hứa hẹn với nhau. Từ Hải muốn cùng Kiều kết thành đôi lứa tri kỉ chứ không phải là yêu đương trăng gió tạm bợ. [11] Mắt xanh: Nguyên Tịch đời Tấn trọng ai thì nhìn bằng con mắt xanh, khinh ai thì nhìn bằng con mắt trắng. Câu này ý nói Từ Hải hỏi Kiều: Xưa nay, nàng chưa hề xem trọng ai có phải không. [12] Tấn Dương: Tên đất nơi Đường Cao Tổ khởi binh đánh nhà Tùy, dựng nên đế nghiệp. Câu này ý nói Thúy Kiều tin tưởng Từ Hải là Từ hải sẽ nên nghiệp đế vương. [13] Trần ai: bụi bặm, chỉ lúc người anh hùng còn ẩn náu, chưa có danh vị gì để phân biệt với người thường. [14] Ý hợp, tâm đầu: hợp ý nhau, có những tình cảm và các suy nghĩ như nhau. [15] Băng nhân: người làm mối trong việc hôn nhân. [16] Nguyên ngân: số tiền bỏ ra khi trước; phát hoàn: đưa trả lại. [17] Thuyền quyên: người con gái đẹp. [18] Sánh phượng, cưỡi rồng: xưa Kính Trọng, nước Tần được quan đại phu nước Tề gả con gái cho, trong quẻ bói được câu: “Phượng hoàng vu phi…” (Chim phượng hoàng cùng bay). Đời Đông Hán, Hoàng Hiến và Lý Ung là hai người có danh vọng, cùng lấy con gái Hoàn Yến, người đời khen hai con gái Hoàn Yến đều cưỡi rồng. Câu này ý nói Thúy Kiều và Từ Hải đẹp duyên với nhau. ChatGPT đã nói: Nhân vật Từ Hải trong đoạn trích được Nguyễn Du khắc họa bằng bút pháp lí tưởng hóa và lãng mạn. Bút pháp này thể hiện rõ qua hình ảnh, ngoại hình, tính cách và lý tưởng sống của Từ Hải – tất cả đều được nâng tầm vượt lên trên thực tế đời thường. Phân tích tác dụng của bút pháp lí tưởng hóa và lãng mạn: Làm nổi bật hình tượng anh hùng tầm vóc phi thường: Từ Hải hiện lên với ngoại hình kỳ vĩ, oai phong: "Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao", "râu hùm, hàm én, mày ngài". Đây là kiểu tướng mạo chỉ thấy trong văn học cổ điển khi miêu tả các bậc anh hùng. Nguyễn Du không miêu tả Từ Hải như người trần mắt thịt mà như một nhân vật sử thi, mang dáng vóc thần thoại: "Đội trời đạp đất ở đời". Ca ngợi khí chất và lý tưởng anh hùng: Từ Hải là người có chí lớn, sống ngang tàng, chuộng tự do: "Giang hồ quen thú vẫy vùng", "côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài". Hình ảnh Từ Hải như hiện thân cho lý tưởng tự do, công lý, là “người cứu tinh” cho Kiều, đại diện cho khát vọng thoát khỏi cường quyền và bất công trong xã hội phong kiến. Làm nền cho mối tình đẹp mang màu sắc cổ tích giữa Thúy Kiều và Từ Hải: Cuộc gặp gỡ của hai người được mô tả đầy lãng mạn và tài hoa: "Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng ưa", "trai anh hùng, gái thuyền quyên". Mối duyên của họ không tầm thường mà như duyên trời định, có chiều sâu về tri kỷ chứ không chỉ là ái tình đơn thuần. Kết luận: Qua bút pháp lí tưởng hóa và lãng mạn, Nguyễn Du đã xây dựng một hình tượng Từ Hải – người anh hùng lý tưởng, không chỉ góp phần giải thoát và tôn vinh Thúy Kiều, mà còn gửi gắm khát vọng công lý, tự do và tình yêu đẹp đẽ giữa đời sống thực tại đầy ngang trái. Điều này làm cho hình tượng Từ Hải trở nên sống động và đáng ngưỡng mộ trong lòng người đọc.
Tổng thể, thái độ của Nguyễn Du dành cho nhân vật Từ Hải là rất tích cực, thể hiện sự tôn trọng, khâm phục và coi trọng tài năng và chí lớn của nhân vật này.rên thực tế đời thường Trai anh hùng, gái thuyền quyên[1] Lần thâu gió mát trăng thanh, Bỗng đâu có khách biên đình[2] sang chơi. Râu hùn, hàm én, mày ngài[3], Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao. Đường đường một đấng anh hào[4], Côn quyền[5] hơn sức, lược thao[6] gồm tài. Đội trời, đạp đất ở đời, Họ Từ, tên Hải, vốn người Việt Đông[7]. Giang hồ quen thú vẫy vùng, Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo[8]. Qua chơi nghe tiếng nàng kiều, Tấm lòng nhi nữ[9] cũng xiêu anh hùng. Thiếp danh đưa đến lầu hồng, Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng ưa. Từ rằng: “tâm phúc tương cờ[10], Phải người trăng gió vật vờ hay sao? Bây giờ nghe tiếng má đào, Mắt xanh[11] chẳng để ai vào, có không?” Thưa rằng: “Lượng cả bao dong, Tấn Dương[12] được thấy mây rồng có phen. Rộng thương cỏ nội, hoa hèn, Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau!” Nghe lời vừa ý, gật đầu, Cười rằng: “Tri kỉ trước sau mấy người Khen cho con mắt tinh đời, Anh hùng đoán giữa trần ai[13] mới già! Một lời đã biết đến ta, Muôn chung nghìn tứ, cũng là có nhau!” Hai bên ý hợp, tâm đầu[14], Khi thân, chẳng lọ là cầu mới thân! Ngỏ lời nói với băng nhân[15], Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn[16]. Buồng riêng, sửa chốn thanh nhàn, Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên. Trai anh hùng, gái thuyền quyên[17], Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng[18]. (Trích Truyện Kiều, Nguyễn Du, trang 158 – 162) [1] Nhan đề do người biên soạn đặt. [2] Biên đình: nơi biên ải xa xôi. [3] Râu hùm, hàm én, mày ngài: tướng mạo của người anh hùng: râu dữ như râu hùm, hàm mở rộng như chim én, mày cong và to như con tằm. [4] Anh hào: anh hùng hào kiệt. [5] Côn quyền: môn võ đánh bằng tay. [6] Lược thao: mưu lược về tài dùng binh. [7] Việt Đông: chỉ tỉnh Quảng Đông ở phía đông sông Việt, nên gọi là Việt Đông. [8] Gươm đàn … một chèo: Hoàng Sào, một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa đời Đường, có câu thơ: “Bán kiên cung kiếm băng thiên túng, nhất trạo giang sơn tận địa tuy” (Chỉ nửa vai cung kiếm mà tung hoành khắp cả gầm trời, chỉ một mái chèo mà đi khắp cả non sông. [9] Tấm lòng nhi nữ: ý nói người đẹp. [10] Tâm phúc tương cờ: tương cờ tức tương kì. Lòng dạ hứa hẹn với nhau. Từ Hải muốn cùng Kiều kết thành đôi lứa tri kỉ chứ không phải là yêu đương trăng gió tạm bợ. [11] Mắt xanh: Nguyên Tịch đời Tấn trọng ai thì nhìn bằng con mắt xanh, khinh ai thì nhìn bằng con mắt trắng. Câu này ý nói Từ Hải hỏi Kiều: Xưa nay, nàng chưa hề xem trọng ai có phải không. [12] Tấn Dương: Tên đất nơi Đường Cao Tổ khởi binh đánh nhà Tùy, dựng nên đế nghiệp. Câu này ý nói Thúy Kiều tin tưởng Từ Hải là Từ hải sẽ nên nghiệp đế vương. [13] Trần ai: bụi bặm, chỉ lúc người anh hùng còn ẩn náu, chưa có danh vị gì để phân biệt với người thường. [14] Ý hợp, tâm đầu: hợp ý nhau, có những tình cảm và các suy nghĩ như nhau. [15] Băng nhân: người làm mối trong việc hôn nhân. [16] Nguyên ngân: số tiền bỏ ra khi trước; phát hoàn: đưa trả lại. [17] Thuyền quyên: người con gái đẹp. [18] Sánh phượng, cưỡi rồng: xưa Kính Trọng, nước Tần được quan đại phu nước Tề gả con gái cho, trong quẻ bói được câu: “Phượng hoàng vu phi…” (Chim phượng hoàng cùng bay). Đời Đông Hán, Hoàng Hiến và Lý Ung là hai người có danh vọng, cùng lấy con gái Hoàn Yến, người đời khen hai con gái Hoàn Yến đều cưỡi rồng. Câu này ý nói Thúy Kiều và Từ Hải đẹp duyên với nhau. ChatGPT đã nói: Nhân vật Từ Hải trong đoạn trích được Nguyễn Du khắc họa bằng bút pháp lí tưởng hóa và lãng mạn. Bút pháp này thể hiện rõ qua hình ảnh, ngoại hình, tính cách và lý tưởng sống của Từ Hải – tất cả đều được nâng tầm vượt lên trên thực tế đời thường. Phân tích tác dụng của bút pháp lí tưởng hóa và lãng mạn: Làm nổi bật hình tượng anh hùng tầm vóc phi thường: Từ Hải hiện lên với ngoại hình kỳ vĩ, oai phong: "Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao", "râu hùm, hàm én, mày ngài". Đây là kiểu tướng mạo chỉ thấy trong văn học cổ điển khi miêu tả các bậc anh hùng. Nguyễn Du không miêu tả Từ Hải như người trần mắt thịt mà như một nhân vật sử thi, mang dáng vóc thần thoại: "Đội trời đạp đất ở đời". Ca ngợi khí chất và lý tưởng anh hùng: Từ Hải là người có chí lớn, sống ngang tàng, chuộng tự do: "Giang hồ quen thú vẫy vùng", "côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài". Hình ảnh Từ Hải như hiện thân cho lý tưởng tự do, công lý, là “người cứu tinh” cho Kiều, đại diện cho khát vọng thoát khỏi cường quyền và bất công trong xã hội phong kiến. Làm nền cho mối tình đẹp mang màu sắc cổ tích giữa Thúy Kiều và Từ Hải: Cuộc gặp gỡ của hai người được mô tả đầy lãng mạn và tài hoa: "Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng ưa", "trai anh hùng, gái thuyền quyên". Mối duyên của họ không tầm thường mà như duyên trời định, có chiều sâu về tri kỷ chứ không chỉ là ái tình đơn thuần. Kết luận: Qua bút pháp lí tưởng hóa và lãng mạn, Nguyễn Du đã xây dựng một hình tượng Từ Hải – người anh hùng lý tưởng, không chỉ góp phần giải thoát và tôn vinh Thúy Kiều, mà còn gửi gắm khát vọng công lý, tự do và tình yêu đẹp đẽ giữa đời sống thực tại đầy ngang trái. Điều này làm cho hình tượng Từ Hải trở nên sống động và đáng ngưỡng mộ trong lòng người đọc.
Tổng thể, thái độ của Nguyễn Du dành cho nhân vật Từ Hải là rất tích cực, thể hiện sự tôn trọng, khâm phục và coi trọng tài năng và chí lớn của nhân vật này.rên thực tế đời thường Trai anh hùng, gái thuyền quyên[1] Lần thâu gió mát trăng thanh, Bỗng đâu có khách biên đình[2] sang chơi. Râu hùn, hàm én, mày ngài[3], Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao. Đường đường một đấng anh hào[4], Côn quyền[5] hơn sức, lược thao[6] gồm tài. Đội trời, đạp đất ở đời, Họ Từ, tên Hải, vốn người Việt Đông[7]. Giang hồ quen thú vẫy vùng, Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo[8]. Qua chơi nghe tiếng nàng kiều, Tấm lòng nhi nữ[9] cũng xiêu anh hùng. Thiếp danh đưa đến lầu hồng, Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng ưa. Từ rằng: “tâm phúc tương cờ[10], Phải người trăng gió vật vờ hay sao? Bây giờ nghe tiếng má đào, Mắt xanh[11] chẳng để ai vào, có không?” Thưa rằng: “Lượng cả bao dong, Tấn Dương[12] được thấy mây rồng có phen. Rộng thương cỏ nội, hoa hèn, Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau!” Nghe lời vừa ý, gật đầu, Cười rằng: “Tri kỉ trước sau mấy người Khen cho con mắt tinh đời, Anh hùng đoán giữa trần ai[13] mới già! Một lời đã biết đến ta, Muôn chung nghìn tứ, cũng là có nhau!” Hai bên ý hợp, tâm đầu[14], Khi thân, chẳng lọ là cầu mới thân! Ngỏ lời nói với băng nhân[15], Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn[16]. Buồng riêng, sửa chốn thanh nhàn, Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên. Trai anh hùng, gái thuyền quyên[17], Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng[18]. (Trích Truyện Kiều, Nguyễn Du, trang 158 – 162) [1] Nhan đề do người biên soạn đặt. [2] Biên đình: nơi biên ải xa xôi. [3] Râu hùm, hàm én, mày ngài: tướng mạo của người anh hùng: râu dữ như râu hùm, hàm mở rộng như chim én, mày cong và to như con tằm. [4] Anh hào: anh hùng hào kiệt. [5] Côn quyền: môn võ đánh bằng tay. [6] Lược thao: mưu lược về tài dùng binh. [7] Việt Đông: chỉ tỉnh Quảng Đông ở phía đông sông Việt, nên gọi là Việt Đông. [8] Gươm đàn … một chèo: Hoàng Sào, một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa đời Đường, có câu thơ: “Bán kiên cung kiếm băng thiên túng, nhất trạo giang sơn tận địa tuy” (Chỉ nửa vai cung kiếm mà tung hoành khắp cả gầm trời, chỉ một mái chèo mà đi khắp cả non sông. [9] Tấm lòng nhi nữ: ý nói người đẹp. [10] Tâm phúc tương cờ: tương cờ tức tương kì. Lòng dạ hứa hẹn với nhau. Từ Hải muốn cùng Kiều kết thành đôi lứa tri kỉ chứ không phải là yêu đương trăng gió tạm bợ. [11] Mắt xanh: Nguyên Tịch đời Tấn trọng ai thì nhìn bằng con mắt xanh, khinh ai thì nhìn bằng con mắt trắng. Câu này ý nói Từ Hải hỏi Kiều: Xưa nay, nàng chưa hề xem trọng ai có phải không. [12] Tấn Dương: Tên đất nơi Đường Cao Tổ khởi binh đánh nhà Tùy, dựng nên đế nghiệp. Câu này ý nói Thúy Kiều tin tưởng Từ Hải là Từ hải sẽ nên nghiệp đế vương. [13] Trần ai: bụi bặm, chỉ lúc người anh hùng còn ẩn náu, chưa có danh vị gì để phân biệt với người thường. [14] Ý hợp, tâm đầu: hợp ý nhau, có những tình cảm và các suy nghĩ như nhau. [15] Băng nhân: người làm mối trong việc hôn nhân. [16] Nguyên ngân: số tiền bỏ ra khi trước; phát hoàn: đưa trả lại. [17] Thuyền quyên: người con gái đẹp. [18] Sánh phượng, cưỡi rồng: xưa Kính Trọng, nước Tần được quan đại phu nước Tề gả con gái cho, trong quẻ bói được câu: “Phượng hoàng vu phi…” (Chim phượng hoàng cùng bay). Đời Đông Hán, Hoàng Hiến và Lý Ung là hai người có danh vọng, cùng lấy con gái Hoàn Yến, người đời khen hai con gái Hoàn Yến đều cưỡi rồng. Câu này ý nói Thúy Kiều và Từ Hải đẹp duyên với nhau. ChatGPT đã nói: Nhân vật Từ Hải trong đoạn trích được Nguyễn Du khắc họa bằng bút pháp lí tưởng hóa và lãng mạn. Bút pháp này thể hiện rõ qua hình ảnh, ngoại hình, tính cách và lý tưởng sống của Từ Hải – tất cả đều được nâng tầm vượt lên trên thực tế đời thường. Phân tích tác dụng của bút pháp lí tưởng hóa và lãng mạn: Làm nổi bật hình tượng anh hùng tầm vóc phi thường: Từ Hải hiện lên với ngoại hình kỳ vĩ, oai phong: "Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao", "râu hùm, hàm én, mày ngài". Đây là kiểu tướng mạo chỉ thấy trong văn học cổ điển khi miêu tả các bậc anh hùng. Nguyễn Du không miêu tả Từ Hải như người trần mắt thịt mà như một nhân vật sử thi, mang dáng vóc thần thoại: "Đội trời đạp đất ở đời". Ca ngợi khí chất và lý tưởng anh hùng: Từ Hải là người có chí lớn, sống ngang tàng, chuộng tự do: "Giang hồ quen thú vẫy vùng", "côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài". Hình ảnh Từ Hải như hiện thân cho lý tưởng tự do, công lý, là “người cứu tinh” cho Kiều, đại diện cho khát vọng thoát khỏi cường quyền và bất công trong xã hội phong kiến. Làm nền cho mối tình đẹp mang màu sắc cổ tích giữa Thúy Kiều và Từ Hải: Cuộc gặp gỡ của hai người được mô tả đầy lãng mạn và tài hoa: "Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng ưa", "trai anh hùng, gái thuyền quyên". Mối duyên của họ không tầm thường mà như duyên trời định, có chiều sâu về tri kỷ chứ không chỉ là ái tình đơn thuần. Kết luận: Qua bút pháp lí tưởng hóa và lãng mạn, Nguyễn Du đã xây dựng một hình tượng Từ Hải – người anh hùng lý tưởng, không chỉ góp phần giải thoát và tôn vinh Thúy Kiều, mà còn gửi gắm khát vọng công lý, tự do và tình yêu đẹp đẽ giữa đời sống thực tại đầy ngang trái. Điều này làm cho hình tượng Từ Hải trở nên sống động và đáng ngưỡng mộ trong lòng người đọc.
Nguyễn Du sử dụng các từ ngữ và hình ảnh sau để chỉ và miêu tả nhân vật Từ Hải: - *Râu hùm, hàm én, mày ngài*: tướng mạo của người anh hùng - *Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao*: hình thể cao lớn, mạnh mẽ - *Đường đường một đấng anh hào*: người anh hùng hào kiệt - *Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài*: tài năng về võ thuật và mưu lược - *Đội trời, đạp đất ở đời*: người có chí lớn, không chịu khuất phục - *Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo*: hình ảnh về người anh hùng có tài năng và chí lớn Từ đó, có thể thấy thái độ của Nguyễn Du dành cho nhân vật Từ Hải là: - *Tôn trọng và khâm phục*: Nguyễn Du miêu tả Từ Hải với những từ ngữ và hình ảnh rất tích cực, thể hiện sự tôn trọng và khâm phục đối với nhân vật này. - *Coi trọng tài năng và chí lớn*: Nguyễn Du nhấn mạnh tài năng và chí lớn của Từ Hải, thể hiện sự coi trọng và đánh giá cao đối với nhân vật này. - *Tôn vinh tình yêu và mối quan hệ*: Nguyễn Du cũng miêu tả mối quan hệ giữa Từ Hải và Thúy Kiều một cách tích cực, thể hiện sự tôn vinh tình yêu và mối quan hệ giữa hai nhân vật. Tổng thể, thái độ của Nguyễn Du dành cho nhân vật Từ Hải là rất tích cực, thể hiện sự tôn trọng, khâm phục và coi trọng tài năng và chí lớn của nhân vật này.
Nguyễn Du sử dụng các từ ngữ và hình ảnh sau để chỉ và miêu tả nhân vật Từ Hải: - *Râu hùm, hàm én, mày ngài*: tướng mạo của người anh hùng - *Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao*: hình thể cao lớn, mạnh mẽ - *Đường đường một đấng anh hào*: người anh hùng hào kiệt - *Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài*: tài năng về võ thuật và mưu lược - *Đội trời, đạp đất ở đời*: người có chí lớn, không chịu khuất phục - *Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo*: hình ảnh về người anh hùng có tài năng và chí lớn Từ đó, có thể thấy thái độ của Nguyễn Du dành cho nhân vật Từ Hải là: - *Tôn trọng và khâm phục*: Nguyễn Du miêu tả Từ Hải với những từ ngữ và hình ảnh rất tích cực, thể hiện sự tôn trọng và khâm phục đối với nhân vật này. - *Coi trọng tài năng và chí lớn*: Nguyễn Du nhấn mạnh tài năng và chí lớn của Từ Hải, thể hiện sự coi trọng và đánh giá cao đối với nhân vật này. - *Tôn vinh tình yêu và mối quan hệ*: Nguyễn Du cũng miêu tả mối quan hệ giữa Từ Hải và Thúy Kiều một cách tích cực, thể hiện sự tôn vinh tình yêu và mối quan hệ giữa hai nhân vật. Tổng thể, thái độ của Nguyễn Du dành cho nhân vật Từ Hải là rất tích cực, thể hiện sự tôn trọng, khâm phục và coi trọng tài năng và chí lớn của nhân vật này.