Lưu Thị Hồng Ánh

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Lưu Thị Hồng Ánh
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

Văn hóa truyền thống là tài sản vô giá của mỗi dân tộc, là kết tinh của lịch sử, là bản sắc riêng biệt tạo nên sự khác biệt giữa các quốc gia trên thế giới. Trong bối cảnh xã hội hiện đại với sự hội nhập và toàn cầu hóa mạnh mẽ, việc gìn giữ và bảo vệ những giá trị văn hóa truyền thống trở nên vô cùng cấp thiết.

Văn hóa truyền thống bao gồm tất cả những phong tục, tập quán, lễ hội, nghệ thuật, kiến trúc, ẩm thực… được hình thành và lưu truyền qua nhiều thế hệ. Giá trị văn hóa truyền thống là những chuẩn mực đạo đức, tinh thần, thẩm mỹ được cộng đồng công nhận và coi trọng. Đó có thể là lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, hiếu thảo, trung thực, vẻ đẹp của các loại hình nghệ thuật truyền thống, hay lối sống giản dị, hòa đồng, tôn trọng thiên nhiên…

Chúng ta cần gìn giữ và bảo vệ các giá trị văn hóa truyền thống bởi đó là cội nguồn, là bản sắc của dân tộc. Văn hóa truyền thống giúp chúng ta hiểu về lịch sử, nguồn gốc, tổ tiên, từ đó thêm yêu quý và tự hào về dân tộc mình. Nếu đánh mất văn hóa truyền thống, chúng ta sẽ trở thành những người vô danh, không có quá khứ, không có tương lai. Hơn nữa, văn hóa truyền thống chứa đựng những giá trị tốt đẹp, là nền tảng để xây dựng xã hội hiện đại. Những giá trị đạo đức, thẩm mỹ, lối sống tốt đẹp được lưu giữ trong văn hóa truyền thống sẽ giúp con người có định hướng, có lý tưởng sống tốt đẹp, tạo ra sự ổn định, hài hòa trong xã hội.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc gìn giữ và bảo vệ các giá trị văn hóa truyền thống hiện nay còn gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh những mặt tích cực như việc nhà nước có nhiều chính sách bảo tồn, phát huy văn hóa truyền thống, nhiều lễ hội, di tích lịch sử được phục dựng, bảo tồn, ý thức của người dân về văn hóa truyền thống được nâng cao, thì vẫn còn tồn tại không ít hạn chế. Văn hóa ngoại lai xâm nhập, ảnh hưởng đến văn hóa truyền thống, một số giá trị văn hóa truyền thống bị mai một, biến dạng, thế hệ trẻ ít quan tâm đến văn hóa truyền thống…

Để khắc phục những hạn chế trên, chúng ta cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp. Trước hết, cần nâng cao nhận thức của cộng đồng về vai trò của văn hóa truyền thống thông qua các phương tiện truyền thông, các hoạt động văn hóa, nghệ thuật. Cần tăng cường giáo dục về văn hóa truyền thống trong nhà trường và gia đình, giúp thế hệ trẻ hiểu và yêu quý văn hóa dân tộc. Đồng thời, cần bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa, phát triển du lịch văn hóa gắn với bảo tồn văn hóa truyền thống. Cần khuyến khích sáng tạo các sản phẩm văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc, chủ động giao lưu, tiếp thu văn hóa nước ngoài một cách có chọn lọc.

Việc gìn giữ và bảo vệ các giá trị văn hóa truyền thống là trách nhiệm của toàn xã hội. Mỗi chúng ta cần ý thức được vai trò của mình trong việc bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc, góp phần xây dựng một xã hội văn minh, giàu đẹp, đậm đà bản sắc văn hóa Việt Nam.

 

Nhân vật “em” trong bài thơ “Chân quê” của Nguyễn Bính là hình ảnh cô gái thôn quê dung dị, chân chất, mang vẻ đẹp mộc mạc nhưng đầy quyến rũ. Em hiện lên qua những chi tiết đời thường, gần gũi: từ dáng vẻ “áo nâu sồng” đến cử chỉ “vắt vẻo” và lời nói “ngọng nghịu”. Tất cả tạo nên một bức tranh chân thực về người con gái quê hương. Sự thay đổi của em từ “hôm nay em đi tỉnh về” đã làm nổi bật sự giao thoa giữa vẻ đẹp truyền thống và hiện đại. Dù có “đôi guốc mới” và “áo lụa sồi”, em vẫn giữ được nét duyên dáng, hồn nhiên vốn có, thể hiện qua nụ cười “mơ màng”. Sự đối lập giữa “chân quê” và “thành thị” được thể hiện rõ nét qua hình ảnh em, làm nổi bật vẻ đẹp thuần khiết, trong sáng của tâm hồn người thôn nữ. Qua đó, Nguyễn Bính không chỉ ca ngợi vẻ đẹp của người con gái quê hương mà còn thể hiện tình yêu, sự trân trọng đối với những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Nhân vật “em” trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp chân quê, là nguồn cảm hứng bất tận trong thơ ca Việt Nam.

“Chân quê” mang thông điệp về sự cần thiết phải bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống. Trong bối cảnh xã hội đang có nhiều thay đổi, việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là vô cùng quan trọng. Bài thơ nhắc nhở chúng ta không nên quên cội nguồn, phải biết trân trọng và phát huy những giá trị tốt đẹp của quê hương, đất nước.

“Chân quê” mang thông điệp về sự cần thiết phải bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống. Trong bối cảnh xã hội đang có nhiều thay đổi, việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là vô cùng quan trọng. Bài thơ nhắc nhở chúng ta không nên quên cội nguồn, phải biết trân trọng và phát huy những giá trị tốt đẹp của quê hương, đất nước.

- Biện pháp tu từ được sử dụng ở đây là ẩn dụ. 

- "Hương đồng gió nội" là nét đặc trưng của vùng quê. Tác giả dùng "hương đồng gió nội" để ẩn dụ cho chất quê chân chất, thật thà, giản dị của em, nhằm nhấn mạnh dường như chỉ sau một ngày đi tỉnh về em đã đánh mất những giá trị văn hóa truyền thống, đặc trưng của con người quê hương mình. 

Trong bài thơ “Chân quê” của Nguyễn Bính, các loại trang phục được nhắc đến bao gồm:
• Trang phục tân thời (thành thị):
◦ Khăn nhung
◦ Quần lĩnh
◦ Áo cài khuy bấm
• Trang phục truyền thống (quê mùa):
◦ Yếm lụa sồi
◦ Dây lưng đũi nhuộm hồi
◦ Áo tứ thân
◦ Khăn mỏ quạ
◦ Quần nái đen
Những loại trang phục này đại diện cho những điều sau:
• Trang phục tân thời: Đại diện cho sự thay đổi, sự du nhập của văn hóa thành thị vào nông thôn, và có thể là sự “màu mè”, “làm dáng” không phù hợp với vẻ đẹp chân chất, mộc mạc của thôn quê.
• Trang phục truyền thống: Đại diện cho vẻ đẹp nguyên sơ, thuần khiết của người thôn quê, gắn liền với những giá trị văn hóa, phong tục tập quán lâu đời của dân tộc. Nó thể hiện sự giản dị, chân chất và gần gũi với thiên nhiên.
=> Tác giả sử dụng sự đối lập giữa hai loại trang phục này để thể hiện nỗi lo lắng về sự mai một của những giá trị truyền thống dưới tác động của văn hóa ngoại lai, đồng thời khẳng định tình yêu và niềm tự hào đối với vẻ đẹp chân quê.

Trong bài thơ “Chân quê” của Nguyễn Bính, các loại trang phục được nhắc đến bao gồm:
• Trang phục tân thời (thành thị):
◦ Khăn nhung
◦ Quần lĩnh
◦ Áo cài khuy bấm
• Trang phục truyền thống (quê mùa):
◦ Yếm lụa sồi
◦ Dây lưng đũi nhuộm hồi
◦ Áo tứ thân
◦ Khăn mỏ quạ
◦ Quần nái đen
Những loại trang phục này đại diện cho những điều sau:
• Trang phục tân thời: Đại diện cho sự thay đổi, sự du nhập của văn hóa thành thị vào nông thôn, và có thể là sự “màu mè”, “làm dáng” không phù hợp với vẻ đẹp chân chất, mộc mạc của thôn quê.
• Trang phục truyền thống: Đại diện cho vẻ đẹp nguyên sơ, thuần khiết của người thôn quê, gắn liền với những giá trị văn hóa, phong tục tập quán lâu đời của dân tộc. Nó thể hiện sự giản dị, chân chất và gần gũi với thiên nhiên.
=> Tác giả sử dụng sự đối lập giữa hai loại trang phục này để thể hiện nỗi lo lắng về sự mai một của những giá trị truyền thống dưới tác động của văn hóa ngoại lai, đồng thời khẳng định tình yêu và niềm tự hào đối với vẻ đẹp chân quê.

Theo em, nhan đề Chân quê có nghĩa là miêu tả tính chân thực thật thà của người miền quê. Họ tuy ăn học không nhiều nhưng họ có một tấm lòng nhân hậu cao cả và họ cũng sống rất tình cảm, họ chia sẻ cho nhau những bữa ăn,thức uống hàng ngày. Đấy chính là bản chất của những người thôn quê vừa thật thà lại còn chất phát.

Bài thơ Chân quê được viết theo thể thơ tự do

nếu là H em sẽ nhắc nhở bạn để bạn làm việc đúng thời gian, nếu bạn M vẫn tái phạm em sẽ báo cáo lại với cô