Tạ Anh Thư

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Tạ Anh Thư
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

Trong bài thơ "Chân quê" của Nguyễn Bính, nhân vật "em" hiện lên như biểu tượng cho sự thay đổi về lối sống và giá trị văn hóa trong xã hội nông thôn Việt Nam những năm 1930. Sau chuyến đi tỉnh, "em" trở về với diện mạo mới: "Khăn nhung, quần lĩnh rộn ràng / Áo cài khuy bấm", khác hẳn với hình ảnh cô gái thôn quê mộc mạc trước kia. Sự thay đổi này không chỉ ở trang phục mà còn phản ánh sự biến đổi trong tâm hồn, khi "em" dường như bị cuốn hút bởi vẻ hào nhoáng nơi thành thị. Chàng trai – nhân vật trữ tình – không giấu được nỗi thất vọng và tiếc nuối, thể hiện qua những câu hỏi tu từ đầy xót xa: "Nào đâu cái yếm lụa sồi? / Cái dây lưng đũi nhuộm hồi sang xuân?" Những hình ảnh trang phục truyền thống được liệt kê không chỉ là biểu tượng của vẻ đẹp quê mùa mà còn là đại diện cho bản sắc văn hóa dân tộc. Lời van nài "Van em! Em hãy giữ nguyên quê mùa" cho thấy mong muốn giữ gìn những giá trị chân quê trước làn sóng đô thị hóa. Qua nhân vật "em", Nguyễn Bính không chỉ kể một câu chuyện tình yêu mà còn gửi gắm thông điệp sâu sắc về việc trân trọng và bảo tồn bản sắc văn hóa truyền thống trong bối Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hiện đại hóa ngày nay, việc gìn giữ và bảo vệ những giá trị văn hóa truyền thống trở thành một nhiệm vụ cấp thiết đối với mỗi quốc gia, đặc biệt là Việt Nam – một đất nước có bề dày lịch sử và nền văn hóa phong phú. Văn hóa truyền thống không chỉ là bản sắc riêng biệt mà còn là sợi dây kết nối các thế hệ, góp phần tạo nên bản lĩnh và cốt cách dân tộc. Văn hóa truyền thống bao gồm các yếu tố như ngôn ngữ, phong tục, tập quán, lễ hội, trang phục, ẩm thực, nghệ thuật dân gian... Những giá trị này được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử, phản ánh tâm hồn, trí tuệ và bản lĩnh của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, trong thời đại hội nhập, nhiều giá trị văn hóa đang đứng trước nguy cơ bị mai một do lối sống thực dụng, sính ngoại và sự xâm nhập mạnh mẽ của văn hóa ngoại lai. Để bảo vệ và phát huy văn hóa truyền thống, mỗi cá nhân cần nâng cao nhận thức về giá trị của bản sắc dân tộc. Việc học tập, tìm hiểu lịch sử, tham gia các hoạt động văn hóa cộng đồng, giữ gìn tiếng Việt, tôn trọng phong tục tập quán địa phương là những hành động thiết thực. Đặc biệt, thế hệ trẻ - những người chủ tương lai của đất nước – cần chủ động tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, đồng thời giữ gìn và lan tỏa những giá trị truyền thống. Ngoài ra, vai trò của gia đình, nhà trường và xã hội cũng vô cùng quan trọng trong việc giáo dục, truyền bá và bảo tồn văn hóa dân tộc. Các cơ quan chức năng cần có chính sách hỗ trợ, khuyến khích việc bảo tồn di sản văn hóa, tổ chức các lễ hội truyền thống, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, qua đó giúp người dân, đặc biệt là giới trẻ, hiểu và trân trọng hơn những giá trị văn hóa của dân tộc. Tóm lại, gìn giữ và bảo vệ văn hóa truyền thống không chỉ là trách nhiệm của mỗi cá nhân mà còn là nghĩa vụ của toàn xã hội. Đó chính là cách để chúng ta khẳng định bản sắc dân tộc, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững của đất nước trong tương lai.

Trong bài thơ "Chân quê" của Nguyễn Bính, nhân vật "em" hiện lên như biểu tượng cho sự thay đổi về lối sống và giá trị văn hóa trong xã hội nông thôn Việt Nam những năm 1930. Sau chuyến đi tỉnh, "em" trở về với diện mạo mới: "Khăn nhung, quần lĩnh rộn ràng / Áo cài khuy bấm", khác hẳn với hình ảnh cô gái thôn quê mộc mạc trước kia. Sự thay đổi này không chỉ ở trang phục mà còn phản ánh sự biến đổi trong tâm hồn, khi "em" dường như bị cuốn hút bởi vẻ hào nhoáng nơi thành thị. Chàng trai – nhân vật trữ tình – không giấu được nỗi thất vọng và tiếc nuối, thể hiện qua những câu hỏi tu từ đầy xót xa: "Nào đâu cái yếm lụa sồi? / Cái dây lưng đũi nhuộm hồi sang xuân?" Những hình ảnh trang phục truyền thống được liệt kê không chỉ là biểu tượng của vẻ đẹp quê mùa mà còn là đại diện cho bản sắc văn hóa dân tộc. Lời van nài "Van em! Em hãy giữ nguyên quê mùa" cho thấy mong muốn giữ gìn những giá trị chân quê trước làn sóng đô thị hóa. Qua nhân vật "em", Nguyễn Bính không chỉ kể một câu chuyện tình yêu mà còn gửi gắm thông điệp sâu sắc về việc trân trọng và bảo tồn bản sắc văn hóa truyền thống trong bối cảnh xã hội đang thay đổi nhanh chóng

Thông điệp: Hãy giữ gìn nét đẹp văn hóa truyền thống của quê hương, đừng chạy theo vẻ hào nhoáng bên ngoài, đừng khoác lên mình những thứ xa lạ, phù phiếm.

Ẩn dụ – hoán dụ: “Hương đồng gió nội” là hình ảnh mang tính ẩn dụ hoặc hoán dụ cho những nét đẹp mộc mạc, thuần khiết, giản dị của người con gái nông thôn – đặc trưng của làng quê Việt Nam xưa. Cách nói giảm – nói tránh: Cụm từ “bay đi ít nhiều” là một cách nói nhẹ nhàng, giảm nhẹ mức độ thay đổi – không phải mất hẳn mà là phai nhạt dần, làm cho câu thơ thêm bâng khuâng, tiếc nuối.

Phân tích tác dụng: Câu thơ thể hiện nỗi băn khoăn và tiếc nuối của người nói trước sự thay đổi của người con gái thôn quê – khi cô bắt đầu học đòi theo lối sống thị thành, mất đi sự chất phác vốn có. Tôn vinh vẻ đẹp tự nhiên, chân quê, đồng thời phê phán nhẹ nhàng sự đánh mất bản sắc mộc mạc, giản dị vì chạy theo cái mới. Câu thơ mang âm hưởng buồn man mác, vừa trách nhẹ, vừa thương, vừa tiếc – thể hiện rõ giọng điệu trữ tình đặc trưng của Nguyễn Bính.

Những loại trang phục trong bài thơ : yếm lụa sồi, áo tứ thân, khăn mỏ quạ, quần nái đen để miêu tả về sự chân chất, giản dị đúng chất thôn quê ngày xưa của cô gái và liệt kê hình ảnh khăn nhung, quần lĩnh, áo cài khuy bấm để miêu tả sự thay đổi của nhân vật “em”.

Nhan đề chân quê gợi cho em liên tưởng về vẻ đẹp mộc mạc, bình dị của vùng thôn quê, của những người con quê. Đó là sự chân thật trong lối sống bình dị, giản đơn của người dân quê. Đó là sự chân chất, thật thà, thẳng thắn, hồn nhiền, trong sáng, không chút vụ lợi, tối tăm của người dân quê

Bài thơ này được viết theo thể thơ lục bát

Cuộc sống của mỗi người không phải lúc nào cũng bước đi trên một con đường bằng phẳng. Có đôi khi, cuộc đời buộc chúng ta phải đối mặt với nghịch cảnh. Con người cần giống như loài hoa dại, có được nghị lực để vượt qua nghịch cảnh trong cuộc sống. Trong xã hội hiện đại, có rất nhiều tấm gương về nghị lực đáng để mỗi chúng ta noi theo . Câu chuyện về thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký có lẽ không còn xa lạ gì với mỗi người. Trong những năm tháng đầu đời Nguyễn Ngọc Ký là một đứa trẻ khỏe mạnh. Thế nhưng khi lên bốn tuổi, một cơn bạo bệnh bất ngờ ập đến khiến ông bị liệt cả hai tay mãi mãi không cầm được bút nữa. Công việc học hành có thể chấm dứt vĩnh viễn khiến ông hết sức đau buồn. Thế nhưng nhận ra tầm quan trọng của học tập để thay đổi cuộc sống. Nguyễn Ngọc Ký đã quyết tâm rèn luyện để viết chữ bằng bàn chân của mình. Và sau này, còn trở thành một người thầy giáo mẫu mực. Nguyễn Ngọc Ký đã tâm sự rằng “ Viết bằng chân là một chuyện rất khó khăn, vất vả nhiều khi tức tưởi vì không cầm vững được cây viết đã muốn buông xuôi tất cả. Dần dần bình tâm lại đã viết được chữ O, Chữ A và sau đó còn vẽ được thước, xoay được compa, làm được lồng chim và những thứ đồ chơi để chơi ”. Mỗi người hãy luôn cố gắng sống tốt với tinh thần lạc quan, sẵn sàng đương đầu với thử thách không ngại khó khăn.

Câu 1: Phương thức biểu đạt chính là nghị luận Câu 2: Luận đề của văn bản là: Nghịch cảnh không phải là trở ngại, mà là yếu tố quan trọng giúp con người rèn luyện bản thân và đi đến thành công Câu 3: Tác giả đã đưa ra hàng loạt tấm gương tiêu biểu vượt lên nghịch cảnh như: Edison thất bại nhiều lần mới sáng chế ra bóng đèn; Voltaire, Proust bị bệnh mà vẫn sáng tác; Ben Fortson cụt chân vẫn trở thành thống đốc; Beethoven bị điếc, Milton bị mù, Charles Darwin tàn tật; Hellen Keller mù, điếc, câm nhưng vẫn thành công rực rỡ; Rousseau nghèo khổ nhưng trở thành triết gia lớn; các vĩ nhân như Phan Bội Châu, Tư Mã Thiên, Gandhi… lập nên sự nghiệp từ trong tù ngục Nhận xét: Những dẫn chứng đa dạng, tiêu biểu, trải dài trong nhiều lĩnh vực (khoa học, văn học, chính trị, triết học) và thời đại. Bằng chứng giàu sức thuyết phục, giúp người đọc hiểu rõ và tin vào sức mạnh của nghị lực trong nghịch cảnh Câu 4: Mục đích: Khích lệ tinh thần vượt khó, truyền cảm hứng sống tích cực và bồi dưỡng ý chí vươn lên trong học sinh, thanh niên Nội dung: Tác giả khẳng định vai trò tích cực của nghịch cảnh trong việc rèn luyện nghị lực và đưa con người đến thành công. Qua đó, ông khuyên con người, đặc biệt là giới trẻ, không nên than vãn về hoàn cảnh mà hãy coi nghịch cảnh là cơ hội để vươn lên Câu 5: _Tác giả lập luận chặt chẽ, rõ ràng theo hướng: nêu vấn đề – phân tích – dẫn chứng – khái quát _Sử dụng nhiều dẫn chứng cụ thể, nổi tiếng, khách quan, khiến cho luận điểm thêm sinh động và thuyết phục _Giọng văn mạnh mẽ, truyền cảm, thể hiện sự tin tưởng và nhiệt huyết, phù hợp với mục đích cổ vũ tinh thần

Bài 3 Cho phương trình 4 x − 3. 2 x + 2 + m = 0 4 x −3.2 x+2 +m=0, với m m là tham số. Tìm giá trị của tham số m m để phương trình đã cho có hai nghiệm phân biệt và tổng hai nghiệm bằng 5 5. Ta có phương trình: 4^x - 3×2^x+2 + m = 0 Đặt 2^x = t (với t>0) ta được: (2^x)² - 3×2^x+2 +m =0 ---> t² - 12t + m =0 Phương trình có hai nghiệm phân biệt và tổng hai nghiệm bằng 5 Với phương trình bậc 2: t² - 12t + m =0, ta có: Tổng hai nghiệm: t1 +t2 = 12 Tích hai nghiệm: t1×t2 = m Theo đề tổng hai nghiệm của phương trình ban đầu bằng 5 Vì 2^x = t ---> x = log2 t, nên x1 +x2 = log2 t1 +log2 t2 = log2 (t1×t2) = log2 m= 5 ---> log2 m = 5 ---> m = 2⁵ = 32