

Nguyễn Tuệ Giang
Giới thiệu về bản thân



































Trong thế giới văn chương muôn màu, mỗi trang viết không chỉ là tiếng vọng đơn lẻ mà là cuộc đối thoại liên tục giữa vô số giọng nói – giọng nói của tác giả, nhân vật, bối cảnh văn hóa và chính độc giả. M. M. Bakhtin gọi đó là “đa thanh” (heteroglossia), nơi những quan điểm và trải nghiệm khác biệt giao thoa, thách thức và bổ sung cho nhau, biến văn bản thành không gian mở để khám phá và thấu cảm. Khi ta tôn trọng sự khác biệt trong từng nhịp điệu ấy, cũng chính là lúc ta bước vào hành trình làm giàu tâm hồn, kích hoạt sự sáng tạo và hun đúc tinh thần nhân ái. Không chỉ trong văn học, mà ngay trong đời sống thường ngày, tôn trọng sự khác biệt của người khác cũng là thước đo văn hóa và phẩm giá mỗi con người.
Tôn trọng sự khác biệt trước hết là nhận thức rằng mỗi cá nhân là một thế giới riêng biệt – với những suy nghĩ, sở thích, niềm tin, giá trị khác nhau. Sự khác biệt ấy không phải là rào cản mà chính là một phần tất yếu của xã hội. Khi ta biết mở lòng đón nhận những điều không giống mình, ta mới thực sự hiểu rằng vẻ đẹp của đời sống nằm trong sự đa dạng vô tận ấy. Như trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, nhiếp ảnh gia Phùng ban đầu nhìn thấy một bức tranh biển mờ sương đầy thi vị, nhưng khi tiến gần hơn, anh mới nhận ra thực tại khắc nghiệt ẩn sau vẻ đẹp ấy: những số phận lam lũ, những nỗi đau âm thầm. Phùng đã học cách nhìn nhận cuộc đời không chỉ bằng con mắt nghệ sĩ mà còn bằng trái tim thấu cảm, biết tôn trọng những câu chuyện đời khác biệt.
Tôn trọng sự khác biệt cũng là nền tảng để thúc đẩy sáng tạo và đổi mới. Bởi nếu mọi người đều suy nghĩ, hành động, cảm nhận giống nhau, thế giới này sẽ chìm trong sự đơn điệu và bão hòa. Trong Dế Mèn phiêu lưu ký của Tô Hoài, những nhân vật mà Dế Mèn gặp trên hành trình – từ Dế Choắt yếu ớt nhưng sâu sắc, đến Xén Tóc nhanh nhẹn, hay những nhân vật kỳ lạ ở vùng đất xa xôi – đều mang những đặc điểm riêng biệt. Chính từ sự phong phú ấy, câu chuyện mới trở nên sinh động, giàu màu sắc, truyền cảm hứng mạnh mẽ cho độc giả. Nếu không có những giọng nói khác biệt ấy, hành trình của Dế Mèn sẽ trở nên vô vị, thiếu chiều sâu.
Hơn thế, tôn trọng sự khác biệt còn là biểu hiện của lòng nhân ái và tinh thần công bằng. Xã hội chỉ thật sự phát triển bền vững khi mỗi con người, dù thuộc tầng lớp, giới tính, văn hóa nào, cũng đều được lắng nghe và tôn trọng. Trong Lão Hạc của Nam Cao, hình ảnh một người nông dân nghèo khổ, trung thực, yêu thương con hết lòng đã được khắc họa với tất cả sự kính trọng và xót xa. Nam Cao đã lắng nghe tiếng nói của những con người nhỏ bé ấy, những con người mà xã hội thời bấy giờ thường xem thường hoặc lãng quên. Đó chính là cách ông thực hiện trách nhiệm văn hóa: tôn trọng mọi giá trị con người, dù khiêm nhường, nhỏ bé đến đâu.
Khi chúng ta biết tôn trọng sự khác biệt, ta không chỉ làm giàu cho chính mình mà còn góp phần dựng xây một xã hội bao dung, đa dạng và tiến bộ. Một cái nhìn, một lời nói, một hành động lắng nghe và chấp nhận sự khác biệt – dù nhỏ bé – cũng có thể mở ra những cánh cửa kết nối, thấu hiểu và yêu thương. Hãy để chúng ta mỗi ngày đều luyện tập việc trân trọng những điều khác lạ quanh mình, để thế giới này mãi mãi là bản hòa ca rực rỡ của những sắc màu, thanh âm và tâm hồn không trùng lặp.
Câu 1:
Ngữ liệu trên thuộc kiểu văn bản thuyết minh.
Câu 2:
Phần sapo của văn bản có đặc điểm: in đậm, đặt ngay dưới nhan đề, tóm tắt nội dung chính nhằm thu hút sự chú ý và định hướng nội dung cho người đọc.
Câu 3:
Theo văn bản, để tạo dáng sản phẩm gốm, nghệ nhân phải thực hiện qua các quy trình cơ bản: làm đất, tạo dáng, nung gốm, trong đó, công đoạn tạo dáng gồm nặn hình, trang trí, miết láng và tu sửa gốm.
Câu 4:
Phương tiện phi ngôn ngữ trong văn bản là hình ảnh: "Nghệ nhân làng gốm Bàu Trúc giới thiệu quy trình làm gốm thủ công."
=>Tác dụng: Hình ảnh minh họa trực quan cho nội dung thuyết minh, giúp người đọc hình dung rõ hơn về quy trình làm gốm và tăng tính hấp dẫn, sinh động cho văn bản.
Câu 5 :
Trạng ngữ: "Với những giá trị đặc sắc".
=>Tác dụng: Trạng ngữ chỉ phương diện, nhấn mạnh lý do vì sao nghệ thuật làm gốm của người Chăm Bàu Trúc trở thành dấu ấn quan trọng của lịch sử, văn hóa, xã hội.
Câu 6 :
Giữ gìn và bảo tồn các làng nghề truyền thống là một nhiệm vụ cấp thiết trong thời đại ngày nay. Theo em, cần có các giải pháp cụ thể như: tổ chức những lớp đào tạo nghề cho thế hệ trẻ, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, gắn phát triển làng nghề với du lịch văn hóa để quảng bá rộng rãi hơn. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ về vốn, công nghệ, đồng thời tôn vinh nghệ nhân để khích lệ tinh thần sáng tạo. Bên cạnh đó, mỗi người dân cần nâng cao ý thức trân trọng giá trị nghề truyền thống, xem đó là một phần máu thịt của quê hương mình. Bảo tồn làng nghề cũng chính là bảo tồn linh hồn văn hóa dân tộc trước dòng chảy mạnh mẽ của toàn cầu hóa.
a, Chiều rộng của thửa ruộng: 20 \(\times\) \(\frac{9}{10}\) = 18 (m)
Diện tích thửa ruộng là: 20 \(\times\) 18 = 360 (m2)
b, Thửa ruộng đó thu được số ki-lô-gam thóc là:
0,75 \(\times\) 360 = 270 (kg)
Trên thửa ruộng đó thu được số ki-lô-gam gạo là:
270 \(\times\) 70 : 100 = 189 (kg)
Kết luận: a, Diện tích thửa ruộng là 360 m2
b, Số ki-lô-gam gạo thu được trên thửa ruộng đó là 189 kg
1.
Vì A nằm giữa O,B nên
Ta có: OA+AB=OB
2cm+AB=OB
Vì điểm A là trung điểm của đoạn thẳng OB, nên
⇒OA=AB\(\left(\right.\)2cm=2cm\(\left.\right)\)
OB=OA+OB
OB=2+2
OB=4 cm
2.
a\(\left.\right)\) Điểm I và C là nằm trong góc BAD
b\(\left.\right)\) Một số góc bẹt trong hình là: góc BID; góc AIC
c\(\left.\right)\) Các góc AIC, ACD,BCD và BAD xếp theo thứ tự tăng dần là:
BAD
a) Có 18 học sinh đi đến trường bằng xe đạp.
b) Lớp 6A có 45 học sinh.
c) Tỉ số phần trăm học sinh đi bộ đến trường là:
(9 : 45) . 100 = 20%
a) -3/4-1/3= -9/12 - 4/12 = -13/12
b) 26,8 - 6,8 . 4
= 6,8 . 4 = 27,2
= 26,8 - 27,2 = -0,4
c) Giải
Số tiền phải trả khi giảm giá 10% là:
50000 . 10% = 5000 (đồng)
Tổng số tiền Nam phải trả là:
50000 - 5000 = 45000 (đồng)
Đáp số: 45000 đồng
A. 3/5
B. 2/8
C. 2
HT
Đúng(1) G ༺ღ¹⁷⁰⁶²⁰¹⁰H𝚘̷àทջ✎﹏ᑭh𝚘̷ทջღ²ᵏ¹⁰༻ღtea... 17 tháng 3 2022a) \(\frac{3}{8} - \frac{1}{6} � = \frac{1}{4}\)
\(\frac{1}{6} � = \frac{3}{8} - \frac{1}{4}\)
\(\frac{1}{6} � = \frac{1}{8}\)
\(� = \frac{1}{8} \div \frac{1}{6}\)
\(� = \frac{3}{4}\)
Vậy \(� = \frac{3}{4}\)
b) \(\left(\left(\right. � - 1 \left.\right)\right)^{2} = \frac{1}{4}\)
\(\left(\left(\right. � - 1 \left.\right)\right)^{2} = \left(\left(\right. \pm \frac{2}{4} \left.\right)\right)^{2}\)
TH1:
\(\left(\left(\right. � - 1 \left.\right)\right)^{2} = \left(\frac{2}{4}\right)^{2}\)
\(� - 1 = \frac{2}{4}\)
\(� - 1 = \frac{1}{2}\)
\(� = \frac{1}{2} + 1\)
\(� = \frac{3}{2}\)
TH2:
\(\left(\left(\right. � - 1 \left.\right)\right)^{2} = \left(\left(\right. - \frac{2}{4} \left.\right)\right)^{2}\)
\(� - 1 = - \frac{2}{4}\)
\(� = - \frac{2}{4} + 1\)
\(� = \frac{1}{2}\)
\(\Rightarrow \backslash\text{orbr} \left{\right. � = \frac{3}{2} \\ � = \frac{1}{2}\)
c) \(\left(\right. � - \frac{- 1}{2} \left.\right) . \left(\right. � + \frac{1}{3} \left.\right) = 0\)
TH1:
\(� - \frac{- 1}{2} = 0\)
\(� = 0 + \frac{- 1}{2}\)
\(� = \frac{- 1}{2}\)
TH2:
\(� + \frac{1}{3} = 0\)
\(� = 0 - \frac{1}{3}\)
\(� = - \frac{1}{3}\)
) \(\frac{1}{3} + \frac{3}{4} - \frac{5}{6}\)
\(= \frac{1}{3} + \frac{3}{4} + \frac{- 5}{6}\)
\(= \frac{1.4 + 3.3 + \left(\right. - 5 \left.\right) . 2}{12}\)
\(= \frac{4 + 9 + \left(\right. - 10 \left.\right)}{12}\)
\(= \frac{3}{12}\)
\(= \frac{1}{4}\)
b) \(\frac{- 2}{3} + \frac{6}{5} \div \frac{2}{3} - \frac{2}{15} \&\text{nbsp};\)
\(= \frac{- 2}{3} + \frac{6}{5} \times \frac{3}{2} - \frac{2}{15}\)
\(= \frac{- 2}{3} + \frac{18}{10} - \frac{2}{15}\)
\(= \frac{- 2}{3} + \frac{9}{5} + \frac{- 2}{15}\)
\(= \frac{\left(\right. - 2 \left.\right) . 5 + 9.3 + \left(\right. - 2 \left.\right)}{15}\)
\(= \frac{\left(\right. - 10 \left.\right) + 27 + \left(\right. - 2 \left.\right)}{15}\)
\(= \frac{15}{15}\)
\(= 1\)
Lễ hội là một trong những nét văn hóa của dân tộc ta, nó không chỉ là nơi để vui chơi giải trí mà nó còn là để cho nhân dân ta thể hiện mong ước hay nhớ ơn tổ tiên ông bà ta. Mỗi một quê hương có những lễ hội riêng, tiêu biểu có thể kể đến lễ hội cầu ngư – lễ hội cá ông.
Có thể nói nhắc đến cái tên lễ hội ấy thì chúng ta hẳn cũng biết là lễ hội của những ai. Nói đến cá thì chỉ có nói đến nhân dân vùng ven biển sinh sống bằng nghề đánh bắt cá. Chính đặc trưng ngành nghề ấy đã quyết định đến tín ngưỡng của họ. Những người sống ven biển miền trung thường có tục thờ ngư ông. Chính vì thế cho nên hàng năm họ thường tổ chức vào các năm giống như những hội ở miền Bắc. Họ quan niệm rằng là sinh vật thiêng ở biển, là cứu tinh đối với những người đánh cá và làm nghề trên biển nói chung. Điều này đã trở thành một tín ngưỡng dân gian phổ biến trong các thế hệ ngư dân ở các địa phương nói trên.
Ở mỗi địa phương thì thời gian diễn ra lễ hội truyền thống lại diễn ra khác nhau. Ở Vũng Tàu thì được tổ chức vào 16, 17, 18 tháng 8 âm lịch hàng năm. Ở thành phố Hồ Chí Minh thì lại được tổ chức vào 14 – 17/18 âm lịch hàng năm. Nói chung dù diễn vào thời gian nào thì tất cả những lễ hội ấy đều nói lên được nét đặc trưng văn hóa của nhân dân ven biển. Đồng thời nó thể hiện khát vọng bình yên, cầu mong cuộc sống ấm no hạnh phúc thịnh vượng của họ. Lễ hội Ngư Ông còn là nơi cho mọi người tưởng nhớ đến việc báo nghĩa, đền ơn, uống nước nhớ nguồn.
Tiếp đến chúng ta đi vào phân tích phần lễ hội ngư ông. Trước hết là phần lễ thì bao gồm có hai phần:
Thứ nhất là lễ rước kiệu, lễ rước đó là của Nam hải Tướng quân xuống thuyền rồng ra biển. Khi ấy những ngư dân sống trên biển và bà con sẽ bày lễ vật ra nghênh đón với những khói nhang nghi ngút. Cùng với thuyền rồng rước thủy tướng, có hàng trăm ghe lớn nhỏ, trang hoàng lộng lẫy, cờ hoa rực rỡ tháp tùng ra biển nghênh ông. Không khí đầy những mùi hương của hương án và bày trước mắt mọi người là những loại lễ. Trên các ghe lớn nhỏ này có chở hàng ngàn khách và bà con tham dự đoàn rước. Đoàn rước quay về bến nơi xuất phát, rước ông về lăng ông Thủy tướng. Tại bến một đoàn múa lân, sư tử, rồng đã đợi sẵn để đón ông về lăng. Có thể thấy lễ rước ông không những có sự trang nghiêm của khói hương nghi ngút mà còn có sự đầy đủ của lễ vật và âm nhạc rộn rã của múa lân.
Thứ hai là phần lễ tế. Nó diễn ra sau nghi thức cúng tế cổ truyền. Đó là các lễ cầu an, xây chầu đại bội, hát bội diễn ra tại lăng ông Thủy tướng.
Tiếp đến là phần hội thì trước thời điểm lễ hội, hàng trăm những chiếc thuyền của ngư dân được trang trí cờ hoa đẹp mắt neo đậu ở bến. Phần hội gồm các nghi thức rước Ông ra biển với hàng trăm ghe tàu lớn nhỏ cùng các lễ cúng trang trọng. Đó là không khí chung cho tất cả mọi nhà trên thành phố đó thế nhưng niềm vui ấy không chỉ có ở thành phố mà nó còn được thể hiện ở mọi nhà. Ở tại nhà suốt ngày lễ hội, các ngư dân mời nhau ăn uống, kể cả khách từ nơi xa đến cũng cùng nhau ăn uống, vui chơi, trò chuyện thân tình.
Như vậy qua đây ta thấy hiểu thêm về những lễ hội của đất nước, ngoài những lễ hội nổi tiếng ở miền Bắc thì giờ đây ta cũng bắt gặp một lễ hội cũng vui và ý nghĩa không kém là ngư ông. Có thể nói qua lễ hội ta thêm hiểu hơn những mong muốn tốt lành của những người ngư dân nơi vùng biển đầy sóng gió. Đặc biệt nó cũng trở thành một lễ hội truyền thống của những n