nhât minh

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của nhât minh
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

BẠN THAM KHẢO NHÉ

Chủ đề lòng yêu nước là một đề tài muôn thuở, không bao giờ cũ trong văn học và đời sống. Nó là cội nguồn sức mạnh, là động lực để một dân tộc vượt qua mọi gian nan, thử thách. Bài viết này sẽ trình bày suy nghĩ của tôi về lòng yêu nước, một khái niệm vừa thiêng liêng, vừa gần gũi, gắn liền với mỗi con người Việt Nam.

Trước hết, cần hiểu rõ lòng yêu nước là gì? Đó không chỉ là tình cảm đơn thuần dành cho quê hương, xứ sở, mà còn là ý thức về trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi cá nhân đối với cộng đồng, dân tộc. Lòng yêu nước thể hiện qua những hành động cụ thể, từ việc nhỏ nhất như giữ gìn vệ sinh môi trường, chấp hành luật pháp, đến những việc lớn lao như cống hiến sức lực, trí tuệ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Lòng yêu nước không phải là một khái niệm trừu tượng, mà nó hiện hữu trong từng lời nói, việc làm, trong cách chúng ta sống và đối xử với nhau.

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, lòng yêu nước đã được thể hiện một cách cao đẹp và hào hùng. Từ những cuộc khởi nghĩa chống ách đô hộ của phong kiến phương Bắc, đến những chiến công hiển hách trong các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, lòng yêu nước luôn là ngọn lửa thôi thúc, là sức mạnh tinh thần to lớn giúp quân và dân ta vượt qua mọi khó khăn, gian khổ để giành độc lập, tự do. Chúng ta không thể nào quên hình ảnh những người lính Cụ Hồ xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, những cô gái thanh niên xung phong bất chấp bom đạn để thông đường, hay những người dân nghèo khó vẫn sẵn sàng chia sẻ từng hạt gạo cho bộ đội. Tất cả những hành động đó đều xuất phát từ lòng yêu nước sâu sắc, từ ý thức về trách nhiệm của mình đối với vận mệnh của dân tộc.

Ngày nay, trong bối cảnh đất nước đang hội nhập và phát triển, lòng yêu nước vẫn giữ một vai trò vô cùng quan trọng. Nó là nền tảng để xây dựng một xã hội văn minh, giàu mạnh, là động lực để mỗi người dân không ngừng học tập, lao động, sáng tạo, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Lòng yêu nước còn là sức mạnh để chúng ta bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trước những tác động tiêu cực của quá trình toàn cầu hóa.

Tuy nhiên, lòng yêu nước không phải là sự mù quáng, cực đoan. Yêu nước chân chính phải đi đôi với lý trí, với sự hiểu biết đúng đắn về tình hình đất nước và thế giới. Chúng ta cần phê phán những biểu hiện lệch lạc của lòng yêu nước, như lợi dụng lòng yêu nước để kích động hận thù, gây rối trật tự xã hội, hoặc phủ nhận những giá trị văn hóa tốt đẹp của nhân loại. Lòng yêu nước phải được thể hiện một cách văn minh, phù hợp với chuẩn mực đạo đức và pháp luật.

Để bồi đắp lòng yêu nước cho thế hệ trẻ, cần có sự chung tay của gia đình, nhà trường và xã hội. Gia đình cần giáo dục con em về truyền thống lịch sử, văn hóa của dân tộc, về những tấm gương hy sinh, cống hiến của các thế hệ đi trước. Nhà trường cần đổi mới phương pháp dạy học, tăng cường các hoạt động ngoại khóa, giúp học sinh hiểu rõ hơn về tình hình đất nước và thế giới. Xã hội cần tạo ra một môi trường lành mạnh, khuyến khích những hành động yêu nước thiết thực, đồng thời lên án những hành vi đi ngược lại lợi ích của dân tộc.

Tóm lại, lòng yêu nước là một tình cảm thiêng liêng và cao đẹp, là cội nguồn sức mạnh của dân tộc. Trong quá khứ, lòng yêu nước đã giúp chúng ta giành độc lập, tự do. Trong hiện tại, nó là động lực để xây dựng một đất nước giàu mạnh, văn minh. Và trong tương lai, lòng yêu nước sẽ tiếp tục là ngọn đuốc soi đường, dẫn dắt dân tộc ta đến những thành công mới. Mỗi chúng ta, dù ở bất cứ vị trí nào, cũng cần phải nuôi dưỡng và phát huy lòng yêu nước, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Khổng Tử, bậc thầy vĩ đại, hơn 2500 năm trước sáng lập ra học thuyết Nho giáo chứa đựng tư tưởng giáo dục sâu sắc. Ông nói: “Tam nhân đồng hành, tất hữu ngã sư yên” – tức “Trong ba người cùng đi, ắt có người là thầy của ta ở đó”.

Suốt nghìn năm phong kiến, giáo dục Việt Nam trên đại thể được coi là nền giáo dục Nho giáo. Giá trị nhân bản tốt đẹp của nền giáo dục này thể hiện rất rõ ở “hằng số văn hóa” thầy – trò. Xưa đến nay, nhân vật quan trọng nhất của trường học là người thầy. Truyền thống ngàn đời trong thế ứng xử của người Việt được cô lại và đúc kết bằng bốn chữ: “Tôn sư trọng đạo”.

Câu nói: “Không thầy đố mày làm nên”, “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư” là những lời cửa miệng của người Việt nhắc nhở nhau mỗi khi đề cập tới vai trò của người thầy. Ở dân tộc Việt Nam, “tôn sư trọng đạo” thấm sâu trong tâm thức mỗi người dân. Để tỏ lòng tôn kính với thầy, người Việt có quan niệm: “Sống tết, chết giỗ”. Chính vì thế mà dưới thời phong kiến, người thầy được xếp thứ hai sau vua, theo cách gọi: Quân – Sư – Phụ (Vua – thầy – cha).

Thế ứng xử dân chủ linh hoạt của người Việt Nam rất đề cao vai trò của thầy trong sự nghiệp dạy và học. Vậy mới có câu: “Trò hơn thầy đức nước càng dày”, “học thầy không tày học bạn” – ý nói bạn cũng có thể là thầy.

Ngày trước, thời phong kiến, không phải ai cũng có tiền đi học. Nhiều gia đình nghèo khó con em không thể đến trường. Tuy nhiên, cơ hội theo học vẫn có. Họ chỉ cần theo những phép tắc nhất định – những phép tắc biểu hiện đậm nét của sự tôn sư trọng đạo mà không quá câu nệ vào vật chất.

Chẳng hạn, trước khi cho con đến theo học, cha mẹ sắm một mâm lễ bái lạy tổ tiên, mong con học hành sáng dạ, đỗ đạt. Sau đó, gia đình có một “lễ mọn”, mang tính chất “lòng thành” dâng lên thầy. Tỏ lòng thành kính “tôn sư trọng đạo”, nhiều gia đình còn gửi gắm con mình theo học và ở luôn bên nhà thầy. Một năm chỉ về thăm nhà vài lần. Thỉnh thoảng, gia đình trò lại gửi biếu thầy ít gạo nếp, hoặc mớ rau, con cá như một thông điệp bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới công lao to lớn của thầy.

Thời gian ở nhà thầy, học trò không chỉ học chữ nghĩa mà quan trọng phải tu dưỡng bản thân, rèn nhân cách sống. Có thể nói, đạo trò xưa không chỉ rất khiêm nhường, tôn kính người thầy của mình, mà còn có trách nhiệm, nghĩa vụ rất lớn lao. Khi ra đường, gặp thầy phải ngả mũ nón và vòng tay chào; lúc thầy già yếu, các đồng môn phải lo sắm cỗ thọ đường (áo quan)…

Phải thừa nhận nền giáo dục phong kiến có nhiều điểm còn hạn chế, nhưng do lấy tư tưởng đạo đức của Nho giáo làm nền tảng cơ bản nên đã tạo ra một lớp học trò trọng nhân nghĩa và sống có đạo lý, rất “tôn sư trọng đạo”.

“Tôn sư trọng đạo” còn thể hiện ở việc kính thầy. Kính thầy là một phong tục có giá trị nhân văn sâu sắc. Kính thầy thường vào dịp đầu xuân – Tết nguyên đán. Học trò xa gần náo nức rủ nhau tới chúc tết, thăm hỏi sức khỏe gia đình thầy. Dân gian có câu: “Mồng một tết cha, mồng hai tết mẹ, mùng ba tết thầy” cũng vì lẽ đó.

Mối quan hệ thầy – trò tượng trưng cho nét đẹp văn hóa ứng xử của nhân dân Việt Nam. Người thầy như điểm sáng trí tuệ sưởi ấm tâm hồn học trò. Tìm trong lịch sử dân tộc ta có biết bao bậc thầy vĩ đại, cả đời tận trung vì dân vì nước. Cuộc sống của họ thanh bần mà được người đời ca tụng, lưu danh muôn thuở.

Vậy mới có một thầy Chu Văn An (1370), sẵn sàng từ bỏ áo mũ, quan tước, dâng sớ lên triều đình xin chém đầu 7 kẻ quyền thần. Một thầy Đồ Chiểu mù hai mắt nhưng cả đời kiên trung, không chịu khuất phục trước sức mạnh xâm lược của ngoại bang…

Ý thức “tôn sư trọng đạo” của dân tộc ta thật đa dạng, chứa đựng tính nhân bản tình người. Minh chứng cho điều này, chúng ta ngược thời gian trở về các làng nghề truyền thống. Nhiều phường nghề, phố nghề ở Thăng Long được bắt đầu từ một số thợ thủ công trong các làng nghề ở nông thôn. Họ di cư lên đô thị lập thương điếm, cửa hiệu làm ăn, dần dà hình thành nên những phường nghề, phố nghề nơi kinh thành.

Tuy sống và làm việc tại thành thị, nhưng họ vẫn có quan hệ mật thiết với quê hương. Ngày giỗ tổ, không ước hẹn nhưng tất cả cùng đồng tâm tụ họp về chốn cũ quê xưa để tưởng nhớ tới vị thầy đã truyền nghề cho họ. Trong sâu thẳm tâm thức mỗi người, đó là việc làm ghi lòng tạc dạ công ơn của lớp hậu sinh tới bậc tiền bối – người thầy sáng lập ra nghề và truyền lại cho hậu thế.

Những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chính sách nhằm ưu tiên cho phát triển giáo dục, coi trọng giáo dục là quốc sách hàng đầu. Cho phép đa dạng hóa các loại hình đào tạo. Chủ trương đưa đất nước phát triển tiến lên bằng nền kinh tế tri thức. Nền giáo dục của Nhà nước ta đã chọn lấy ngày 20 tháng 11 hằng năm làm ngày Nhà giáo Việt Nam. Đây có thể xem như là một biểu tượng đẹp cho truyền thống “tôn sư trọng đạo” của dân tộc Việt Nam.