

Dương Thanh Mai
Giới thiệu về bản thân



































Bài 1:
Các yếu tố ảnh hưởng đến tốc độ phản ứng hóa học:
- Nồng độ chất phản ứng: Nồng độ chất phản ứng càng cao, số lượng phân tử va chạm trong một đơn vị thời gian càng lớn, dẫn đến tốc độ phản ứng tăng. Ngược lại, nồng độ chất phản ứng thấp thì số lần va chạm hiệu quả giảm, tốc độ phản ứng giảm.
- Nhiệt độ: Nhiệt độ tăng làm tăng năng lượng động học của các phân tử, dẫn đến số lượng va chạm hiệu quả tăng và tốc độ phản ứng tăng. Mỗi khi nhiệt độ tăng 10 độ C, tốc độ phản ứng thường tăng gấp đôi hoặc gấp ba (quy tắc Van't Hoff)
- Diện tích bề mặt tiếp xúc: Đối với phản ứng giữa chất rắn và chất lỏng hoặc chất khí, diện tích bề mặt tiếp xúc càng lớn thì số lượng va chạm hiệu quả càng lớn, tốc độ phản ứng càng tăng. Ví dụ, bột sắt phản ứng với axit nhanh hơn một khối sắt cùng khối lượng.
- Áp suất: Áp suất chỉ ảnh hưởng đến tốc độ phản ứng của các phản ứng có chất khí tham gia. Áp suất tăng làm tăng nồng độ các chất khí, dẫn đến số lượng va chạm hiệu quả tăng và tốc độ phản ứng tăng.
- Chất xúc tác: Chất xúc tác làm tăng tốc độ phản ứng bằng cách cung cấp một con đường phản ứng mới có năng lượng hoạt hóa thấp hơn, mà không bị tiêu hao trong quá trình phản ứng.
a, Môi trường nuôi cấy không liên tục là môi trường nuôi cấy không được bổ sung chất dinh dưỡng mới và không được lấy đi các sản phẩm trao đổi chất.
b, Các pha sinh trưởng của vi khuẩn trong môi trường nuôi cấy không liên tục: 4 pha.
Pha tiềm phát (pha Lag)
- Vi khuẩn thích nghi với môi trường.
- Số lượng tế bào trong quần thể không tăng.
- Enzim cảm ứng được hình thành.
Pha lũy thừa (pha Log)
- Vi khuẩn bắt đầu phân chia, số lượng tế bào tăng theo lũy thừa.
- Hằng số M không đủ theo thời gian và là cực đại đối với một số chủng và điều kiện nuôi cấy.
Pha cân bằng
- Số lượng vi sinh vật đạt mức cực đại, không đổi theo thời gian là do:
+ Một số tế bào bị phân hủy.
+ Một số khác có chất dinh dưỡng lại phân chia.
Pha suy vong
- Số tế bào trong quần thể giảm dần do:
+ Số tế bào bị phân hủy nhiều.
+ Chất dinh dưỡng bị cạn kiệt.
+ Chất độc hại tích lũy nhiều.
Việc chuyển sang trồng đậu nành trên mảnh đất đã trồng khoai trước đó có tác dụng bổ sung và duy trì lượng nitrogen trong đất là do đậu nành là cây họ đậu. Cây họ đậu có khả năng cộng sinh với vi khuẩn cố định đạm (rhizobia) trong các nốt sần ở rễ. Vi khuẩn này chuyển hóa nitrogen trong không khí thành dạng amoniac (NH3), một dạng nitrogen mà cây có thể hấp thụ được. Sau khi cây đậu nành thu hoạch, lượng nitrogen tích lũy trong thân và lá sẽ được trả lại cho đất thông qua quá trình phân hủy, bổ sung nguồn nitrogen cho vụ mùa tiếp theo. Ngược lại, cây khoai không có khả năng cố định đạm như vậy, dẫn đến việc đất bị thiếu hụt nitrogen sau nhiều vụ trồng.
Trong rễ cây đậu nành có sự cộng sinh giữa rễ cây và vi khuẩn Rhizobium. Trong mối quan hệ cộng sinh này, cây cung cấp sản phẩm quang hợp cho đời sống và hoạt động của vi khuẩn ngược lại vi khuẩn có vai trò cố định N2 tự do từ không khí thành NH3 vừa cung cấp cho cây vừa cung cấp cho đất. Như vậy, việc chuyển sang trồng đậu nành trên mảnh đất đã trồng khoai trước đó lại có tác dụng bổ sungg và duy trì nitrogen trong đất.