

Nông Thị Hà Vi
Giới thiệu về bản thân



































Sau một thời gian điện phân để sản xuất NaOH, dung dịch NaCl ở anode được gọi là “nước muối nghèo” và được đưa ra khỏi bể điện phân, đồng thời dung dịch NaCl mới được bổ sung vào để tiếp tục quá trình điện phân. Nước muối bão hòa có nồng độ 300 g/L, “nước muối nghèo” có nồng độ 220 g/L. Với mỗi lít nước muối bão hoà ban đầu có thể sản xuất được bao nhiêu gam sodium hydroxide? Biết hiệu suất của quá trình là 80%.
Trình bày về thành phần nguyên tố của gang và thép.
Trình bày về thành phần nguyên tố của gang và thép.
ầu: Bớt và Nở đều là con gái bà Ngải nhưng lại nhận sự đối xử phân biệt yêu ghét trái ngược từ mẹ đến mức Bớt từng phải ấm ức khóc ầm ĩ: "Bu đừng có con yêu con ghét! Được, đã thế xem sau này bu già, một mình cái Nở có nuôi bu không, hay lúc ấy lại phải gọi đến tôi?". Sau này hai cô con gái đi lấy chồng, bà vẫn đối xử kiểu phân biệt, có gì cũng bù trì cho Nở, tiền nong gửi cả Nở nhưng rồi lại bị chính Nở dáo dở lấy hết tiền gom góp dành dụm của bà. Bà giận, khóa cửa, xuống cuối làng ở với mẹ con Bớt.
[...] Thấy mẹ đem quần áo nồi niêu đến ở chung, Bớt rất mừng. Nhưng chị cố gặng mẹ cho hết lẽ:
- Bu nghĩ kĩ đi. Chẳng sau này lại phiền bu ra, như chị Nở thì con không muốn...
Nghe con nhắc đến thế thì cụ lại ngượng. Bà cụ gượng cười:
- Mày khác, nó khác. Với cái gì mà phải nghĩ hở con? Đây này, bu cứ tính thế này: Bao giờ đánh xong thằng Mỹ, bố con Hiên với cậu Tấn nó về, lúc bấy giờ ở đâu rồi hãy hay. Còn bây giờ bu cứ ở đây với mẹ con mày, chứ bu ở trên ấy một mình, vong vóng cũng buồn, mà mẹ con mày dưới này thì bấn quá. Mày thì đã lắm thứ công tác. Lại còn lo làm điểm lấy thóc nuôi con...
Từ ngày bà đến ở chung, Bớt như người được cất đi một gánh nặng trên vai. Giờ Bớt chỉ lo công tác với ra đồng làm, giá có phải đi họp hay đi học dăm bảy ngày liền như lớp học chống sâu bệnh cho lúa vừa rồi, là Bớt có thể yên trí đùm gạo đi được, không phải như cái đận ngày xưa vừa họp đấy, mà bụng thì nôn lên với mấy đứa con còn vất vạ ra ở nhà, gửi liều cho hàng xóm. Mấy đứa trẻ được bà trông, chỉ vài tháng đã lớn, béo ra trông thấy. [...]
[...] Bớt kéo con vào lòng, vạch tóc con ra và chỉ vào cái sẹo to bằng cái trôn bát ở gần đỉnh đầu, vô tình kể với bà:
- Còn bố nó ở nhà, bố nó thương con này nhất, bố nó cứ bảo: Tội! Con gái xấu xí.
Bà cụ thở dài và buột miệng cái điều mà bà vẫn lấy làm ân hận:
- Ừ, đáng ra là thế, con nào chả là con. Có mẹ cổ nhân cổ sơ, ngày xưa mẹ mới dọa ra thế chứ!
Bớt vội buông bé Hiên, ôm lấy mẹ:
- Ô hay! Con có nói gì đâu, sao bu cứ nghĩ ngợi thế nhỉ?
1966 - 1974
(Vũ Thị Thường, Tuyển tập truyện ngắn Việt Nam 1945 - 2005, NXB Công an Nhân dân, 2005, tr.20 - 23)
Thực hiện các yêu cầu từ 1 đến 5 (trình bày ngắn gọn)
Câu 1. Xác định ngôi kể của người kể chuyện.
Câu 2. Chỉ ra một số chi tiết về cách ứng xử của chị Bớt Dương trong văn bản cho thấy chị không giận mẹ dù trước đó từng bị mẹ phân biệt đối xử.
Câu 3. Qua đoạn trích, anh/chị thấy nhân vật Bớt là người như thế nào?
Câu 4. Hành động ôm lấy vai mẹ và câu nói của chị Bớt: "- Ô hay! Con có nói gì đâu, sao bu cứ nghĩ ngợi thế nhỉ?" có ý nghĩa gì?
Câu 5. Qua văn bản, hãy nêu một thông điệp mà anh/chị thấy có ý nghĩa nhất đối với cuộc sống hôm nay và lí giải tại sao.
Bạn chưa trả lời câu hỏi này. Trả lời câu hỏi nàyBài 2
Xem hướng dẫn Bình luận (670)II. PHẦN VIẾT (6.0 ĐIỂM)
Câu 1 (2.0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) nêu cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp của bức tranh quê trong đoạn thơ sau:
Tiếng võng trong nhà kẽo kẹt đưa,
Đầu thềm con chó ngủ lơ mơ,
Bóng cây lơi lả bên hàng dậu,
Đêm vắng, người im, cảnh lặng tờ.
Ông lão nằm chơi ở giữa sân,
Tàu cau lấp loáng ánh trăng ngân.
Thằng cu đứng vịn bên thành chõng,
Ngắm bóng con mèo quyện dưới chân.
(Trích Trăng hè, Đoàn Văn Cừ, Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh, Hoài Chân, NXB Văn học, 2005, tr.190 - 191)
Câu 2 (4.0 điểm)
Anh/chị hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) trình bày suy nghĩ về sự nỗ lực hết mình của tuổi trẻ hiện nay.
Bạn chưa trả lời câu hỏi này. Trả lời câu hỏi nàyDưới ngòi bút tài hoa và uyên bác của Hoàng Phủ Ngọc Tường, dòng sông Hương hiện lên không chỉ là một cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng mà còn là một chứng nhân lịch sử, mang trong mình chiều sâu văn hoá và tinh thần dân tộc. Trong đoạn trích, sông Hương được khắc họa như một dòng sông anh hùng, đã sống “những thế kỉ quang vinh” với biết bao chiến công và biến cố lịch sử: từ thời các vua Hùng, đến thời Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ, qua các cuộc khởi nghĩa thế kỷ XIX và cả trong Cách mạng tháng Tám, mùa xuân Mậu Thân. Dòng sông ấy không chỉ “soi bóng kinh thành” mà còn thấm máu của những anh hùng, những con người bất khuất vì độc lập dân tộc. Không chỉ thế, sông Hương còn gắn liền với những mất mát đau thương, là nhân chứng cho sự tàn phá tàn nhẫn của chiến tranh. Từ đó, sông Hương được nâng tầm trở thành biểu tượng của tâm hồn và bản sắc Huế, vừa hào hùng, bi tráng, lại sâu lắng và đầy chất thơ.
Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, con sông Đà hiện lên với vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng và đầy chất cổ tích. Trong đoạn trích, cảnh ven sông được miêu tả như một thế giới tách biệt khỏi cuộc sống ồn ào thường nhật, mang nét hoang sơ, cổ kính “như một bờ tiền sử” và “hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Không gian tĩnh lặng, vắng bóng con người khiến sông Đà trở nên huyền ảo, như một miền ký ức xa xưa, đánh thức trong lòng người những cảm xúc mơ hồ mà da diết. Những hình ảnh thiên nhiên như “nõn búp cỏ gianh”, “đàn hươu”, “lá ngô non”, “cá dầm xanh”… hiện lên sinh động, giàu chất tạo hình, tạo nên một bức tranh sơn thủy hữu tình đầy chất thơ. Đặc biệt, chi tiết con hươu "thơ ngộ" ngẩng đầu nhìn người lái đò gợi ra một mối giao cảm sâu xa giữa con người và thiên nhiên. Sông Đà không chỉ đẹp về hình ảnh mà còn mang hồn, mang tình – là “người tình nhân chưa quen biết” đầy duyên dáng, khiến người nghệ sĩ phải rung động, phải thốt lên đầy mê say và trân trọng.
Câu 1.
Thể thơ: Thơ tự do.
Câu 2.
Một số từ ngữ tiêu biểu thể hiện hình ảnh biển đảo và đất nước:
- “Hoàng Sa”, “bám biển”, “Mẹ Tổ quốc”, “máu ngư dân”, “giữ biển”, “giữ nước”...
Câu 3.
Biện pháp tu từ so sánh: “Mẹ Tổ quốc vẫn luôn ở bên ta / Như máu ấm trong màu cờ nước Việt”
Tác dụng: Gợi hình ảnh thiêng liêng, gần gũi và ấm áp của Tổ quốc như dòng máu trong huyết quản, luôn chảy trong tim mỗi người dân Việt Nam, khơi dậy lòng yêu nước và tinh thần đoàn kết.
Câu 4.
Đoạn trích thể hiện tình cảm tự hào, biết ơn sâu sắc và yêu thương tha thiết của nhà thơ với Tổ quốc, đặc biệt là với những người đang ngày đêm bảo vệ biển đảo quê hương.
Câu 5.
Là thế hệ trẻ, em nhận thức rõ trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ biển đảo quê hương. Em sẽ tích cực học tập, tìm hiểu về lịch sử – chủ quyền biển đảo; lan tỏa ý thức bảo vệ môi trường biển; và sẵn sàng lên tiếng, bảo vệ lẽ phải trước những hành động xâm phạm chủ quyền. Đó là cách em thể hiện lòng yêu nước trong thời bình.
Câu 1.
Văn bản thể hiện tâm trạng, cảm xúc của nhân vật trữ tình khi sống nơi đất khách (thành phố Xan-đi-ê-gô, Mỹ), đang nhớ về quê hương.
Câu 2.
Những hình ảnh khiến nhân vật trữ tình ngỡ như quê ta là:
- Nắng trên cao
- Mây trắng bay xa
- Đồi nhuộm vàng trên đỉnh ngọn
Câu 3.
Cảm hứng chủ đạo: Nỗi nhớ quê hương da diết của người xa xứ, nhìn cảnh vật nơi đất khách mà liên tưởng đến quê nhà.
Câu 4.
- Ở khổ 1, nhân vật trữ tình thấy hình ảnh thân quen, tưởng như đang ở quê, gợi cảm giác ấm áp, gần gũi.
- Ở khổ 3, dù vẫn là mây trắng, nắng vàng nhưng cảm xúc chuyển sang buồn và cô đơn, thể hiện rõ nỗi nhớ quê và cảm giác lạc lõng nơi đất khách.
Câu 5.
Mình ấn tượng nhất với hình ảnh “Ngó xuống mũi giày thì lữ thứ” – chỉ một ánh nhìn xuống là nhận ra mình là kẻ xa xứ, gợi sự cô đơn và lạc lõng cực mạnh, chạm đến cảm xúc của người hay nhớ nhà.