

Nguyễn Viết Huy
Giới thiệu về bản thân



































câu 1: Bài làm
Nhân vật Bê-li-cốp trong đoạn trích “Người trong bao” của tác giả A. P. Chéc-ốp là hình ảnh điển hình của một con người khép kín, sống trong nỗi sợ hãi và né tránh thực tại. Từ những chi tiết miêu tả như luôn mặc áo bành tô, đi giày cao su, cầm ô, đeo kính râm, đến việc hắn luôn giữ mình trong vỏ bọc, Bê-li-cốp hiện lên như một người suốt đời tránh xa thế giới bên ngoài, không dám đối diện với cuộc sống thực. Hành động của hắn, như đi từ nhà này đến nhà khác mà không giao tiếp, cũng chỉ nhằm mục đích "duy trì mối quan hệ" nhưng thực chất lại thể hiện sự cô đơn và thiếu kết nối với xã hội. Nhân vật Bê-li-cốp phản ánh một lối sống thiếu sự tự do, khi con người quá sợ hãi và lo lắng đến mức tạo ra một lớp vỏ bảo vệ để trốn tránh mọi khó khăn, thử thách của cuộc sống. Chính sự khép kín ấy đã khiến hắn sống trong một thế giới ảo tưởng, không thể hòa nhập và phát triển. Bê-li-cốp là lời cảnh tỉnh về sự cần thiết của việc mở lòng và đối diện với cuộc sống thay vì trốn chạy khỏi nó.
câu 2: Bài làm
Trong cuộc sống, mỗi người đều có một "vùng an toàn" - đó là không gian quen thuộc mà ở đó ta cảm thấy thoải mái, yên ổn và ít phải đối mặt với rủi ro hay thử thách. Vùng an toàn có thể là một công việc ổn định, một môi trường sống thân thuộc hay thậm chí là những thói quen hàng ngày ta đã quá quen. Tuy nhiên, nếu mãi ở trong đó, con người rất dễ rơi vào trạng thái trì trệ, không phát triển và đánh mất nhiều cơ hội quý giá. Chính vì vậy, việc bước ra khỏi vùng an toàn không chỉ là thử thách bản thân mà còn là con đường giúp mỗi người trưởng thành và đạt được những thành công lớn hơn.
Bước ra khỏi vùng an toàn đồng nghĩa với việc ta chấp nhận đương đầu với những điều chưa biết, những khó khăn và rủi ro có thể xảy ra. Điều này có thể khiến con người cảm thấy lo lắng, sợ hãi, nhưng chính những trải nghiệm ấy lại là chất xúc tác giúp ta khám phá năng lực tiềm ẩn của bản thân. Một người chỉ thực sự hiểu rõ mình mạnh mẽ đến đâu khi họ dám thử sức với những điều mới lạ, khác biệt với thói quen hằng ngày. Giống như con chim non phải rời tổ, học cách tung cánh bay lên bầu trời rộng lớn, con người cũng cần phải tự mình bước ra khỏi vòng tròn an toàn để trải nghiệm, học hỏi và trưởng thành hơn.
Bên cạnh đó, khi dám bước ra khỏi vùng an toàn, ta có cơ hội để phát triển kỹ năng, kiến thức và mở rộng tầm nhìn. Một sinh viên dám thử thách bản thân với các công việc thực tập sẽ học được kỹ năng thực tế và hiểu hơn về thế giới nghề nghiệp. Một nhân viên dám nhận những nhiệm vụ khó khăn sẽ có cơ hội rèn luyện năng lực quản lý, giải quyết vấn đề và thể hiện giá trị của mình. Ngược lại, nếu chỉ an phận trong vùng an toàn, ta có thể sẽ bỏ lỡ những cơ hội để thăng tiến, học hỏi và nâng cao giá trị bản thân.
Hơn nữa, vượt qua vùng an toàn còn giúp ta hình thành sự tự tin và khả năng thích nghi trong cuộc sống. Khi đối mặt với thử thách và vượt qua nó, con người cảm nhận rõ ràng sức mạnh và sự kiên cường của bản thân. Điều đó tạo nên niềm tin để tiếp tục chinh phục những đỉnh cao mới. Đời sống ngày càng thay đổi, nếu không biết thích nghi, con người sẽ dần bị bỏ lại phía sau. Chỉ khi rèn luyện thói quen vượt qua giới hạn, ta mới có thể thích nghi nhanh hơn với môi trường mới, công việc mới và những biến động không ngừng của xã hội hiện đại.
Dĩ nhiên, bước ra khỏi vùng an toàn không có nghĩa là mạo hiểm một cách mù quáng hay bất chấp mọi rủi ro. Điều quan trọng là phải biết đánh giá tình hình, lên kế hoạch và có sự chuẩn bị kỹ càng để đối mặt với thử thách một cách thông minh và hiệu quả.
Tóm lại, việc bước ra khỏi vùng an toàn không chỉ giúp mỗi người phát triển bản thân mà còn là con đường để trưởng thành và đạt được thành công bền vững. Cuộc sống luôn mở ra những cơ hội cho những ai dám thử sức và không ngại thay đổi. Nếu không dám bước ra khỏi giới hạn quen thuộc, ta sẽ không bao giờ biết được bản thân mình có thể vươn xa đến đâu.
câu1 : Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong bài là miêu tả và tự sự
câu 2:Nhân vật trung tâm của đoạn trích là Bê-li-cốp
câu 3:Đoạn trích được kể theo ngôi thứ nhất . Tác dụng của ngôi kể này là giúp người kể thể hiện những cảm nhận, quan sát và suy nghĩ trực tiếp về nhân vật Bê-li-cốp.
câu 4:-Bê-li-cốp luôn mặc áo bành tô ấm cốt bông, đi giày cao su, cầm ô, và khi cần gọt bút chì, hắn cũng sử dụng dao nhỏ để trong bao
-Hắn đeo kính râm, tai nhét bông, và khi ngồi lên xe ngựa luôn cho kéo mui lên.
-Nhan đề "Người trong bao" tượng trưng cho việc Bê-li-cốp luôn tự tạo cho mình một lớp vỏ bảo vệ, một "bao" để trốn tránh và che giấu bản thân khỏi thế giới xung quanh.
câu 5: Đoạn trích cảnh báo về sự trốn tránh, khép mình vào vỏ bọc của con người, tránh né hiện thực cuộc sống và những mối quan hệ xã hội. Một cuộc sống như vậy sẽ dẫn đến sự cô lập và mất đi những trải nghiệm và cơ hội phát triển. Bài học là mỗi người cần đối diện và hòa nhập với cuộc sống thay vì chạy trốn trong "bao" để không bị lạc lõng và cô đơn.
câu 1:
Trong cuộc sống, mỗi người đặc biệt là thế hệ trẻ luôn mang trong mình một quan niệm sống rõ rệt, nhưng lối sống điển hình nhất có lẽ là "sống ở thế chủ động". Vậy phong cách sống này là gì và nó mang lại cho bản thân tuổi trẻ những ý nghĩa, giá trị nào? Trước hết, lối sống ấy là sống một cách tích cực, sống không ngừng sáng tạo, cống hiến, chuẩn bị cho tương lai, sống không bị động. Người có phong cách sống này luôn gặt hái được nhiều thành tích cao. Thực tế cho thấy, có rất nhiều bạn trẻ sở hữu lối sống này. Tiêu biểu như bạn Nguyễn Thuận Hưng, bạn luôn vạch ra cho mình những kế hoạch, mục tiêu cụ thể từ đó sống và học tập hết mình để hoàn thành được nhiệm vụ. Thật vậy, lối sống chủ động đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống của chúng ta. Khi chủ động, ta có thể nhạy bén với những thay đổi của xã hội, của thế giới mà không rơi vào tình trạng bị động, lạc lối. Hơn hết, chính nó sẽ biến ta thành con người chăm chỉ, siêng năng và luôn sở hữu trí tưởng tượng phong phú, lối làm việc sáng tạo và nhanh nhạy.
câu 2:
Nguyễn Trãi không chỉ biết đến với tác phẩm nổi tiếng, một áng thiên cổ hùng văn bình ngô đại cáo mà còn được biết đến với những bài thơ thiên nhiên và con người như Côn Sơn Ca, Cây Chuối… một trong những tác phẩm thiên nhiên và con người ấy còn phải kể đến bài thơ bảo kính cảnh giới 43 của ông. Đó là bài thơ cảnh ngày hè với những thiên nhiên con người và tâm trạng của Nguyễn Trãi.
Trong những bài thơ về tình yêu thiên nhiên Côn Sơn chính là nơi dừng chân của Nguyễn Trãi trong những ngày tháng buồn bã mệt mỏi nơi quan trường.
Sự ung dung nhàn hạ ấy được thể hiện trong câu thơ đầu tiên:
Rồi hóng mát thuở ngày trường
Câu thơ như mở ra những ngày tháng thảnh thơi, hóng mát những ngày dài, những hình ảnh dài của những ngày tháng ấy dần được mở ra ở những câu sau. Những ngày tháng ấy là những ngày tháng an nhàn khi gác lại chuyện chính sự sang một bên, khiến cho không chỉ tâm hồn mà thể xác cũng rất nhàn hạ. cuộc sống với ông chỉ cần thế mùa hè đến ông không cảm nhận thấy cái nóng của đất trời mà ông chỉ cảm nhận được gió mát. Thiên nhiên nơi chốn quê hương chính là nguồn cảm hứng vô tân cho tác giả. làm cho ông cảm thấy vui vẻ phần nào trong cuộc sống ở quê.
“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương.
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”
Đây là những câu thơ đặc tả những cảnh đẹp mùa hè nơi chốn quê hương ông, là hương sắc mùa hè rất sinh động và hấp dẫn. hình ảnh của mùa hè hiện ra với những gam màu nóng:màu đỏ của hoa hòe, màu lựu đỏ, màu hồng của cánh sen và chúng được kết hợp với những động từ mạnh như “ đùn đùn”, “ phun”, “ tiễn” cho thấy một bức tranh quê hương với màu sắc và hương vị đặc trưng và sự sinh sôi nảy nở mạnh mẽ trong mùa hè.
Bức họa đồng quê hiện ra với biết bao nhiêu màu sắc bao nhiêu thay đổi đẹp đẽ, và đó còn là sự sinh trưởng mạnh mẽ của hoa cỏ cây cối. nó mang tới cho chúng ta những cảm giác thật yên bình, không những thế ta còn cảm nhận được cái hương vị của mùa hè qua động từ “tiễn”.
Không những thế mùa hè còn mang đến cho tác giả những những phiên chợ những làng ngư phủ. Cuộc sống thôn dã hiện ra với vẻ tấp nập hiếm có của con người nơi đây. Chính chợ phản ánh cuộc sống của con người có no đủ, giàu có hay không
“Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”
Cuộc sống thật sự náo nhiệt, những phiên chợ của những ngư dân vùng biển, hình ảnh ảnh những con người lao động hiện lên thật đẹp với phiên chợ vui vẻ của những lưới cá bội thu.
Dân giàu đủ khắp đòi phương”.
Cất lên một khúc đàn của cây đàn vua Ngu Thuấn mang lại cho nhân dân cuộc sống ấm no hạnh phúc. MƯợn được hình ảnh vua Ngu Thuấn cây cầm ấy để làm cho nhân dân ta giàu mạnh khắp phương. Dù đã trở về với cuộc sống nơi thôn dã nhưng ông luôn luôn giữ tình yêu thương và lòng mong mỏi một cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân trăm họ.
Bài thơ là những dòng chảy cảm xúc về thiên nhiên cũng như nỗi khát khao mong mỏi và tấm lòng yêu nước nồng nhiệt của Nguyễn Trãi. Bìa thơ tuy ngắn nhưng để lại cho người đọc nhiều ấn tượng mạnh. Kết thúc bài thơ là tinh thần nhân nghĩa cao cả và tình yêu nhân dân vô bờ bến của ông.
Câu 1: Văn bản trên thuộc thể thơ thất ngôn tứ tuyệt.
Câu 2: Những hình ảnh nói về nét sinh hoạt hàng ngày đạm bạc, thanh cao của tác giả là: “Thu ăn măng trúc, đông ăn giá/ Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”. Đây là những hình ảnh giản dị, gần gũi với thiên nhiên, thể hiện lối sống thanh bạch, tự tại của tác giả.
Câu 3: Biện pháp tu từ liệt kê được sử dụng trong hai câu thơ “Một mai, một cuốc, một cần câu/ Thơ thẩn dầu ai vui thú nào” liệt kê những vật dụng đơn sơ, giản dị gắn liền với cuộc sống thanh đạm của nhà thơ. Tác dụng của biện pháp tu từ này là làm nổi bật sự giản dị, tự tại trong cuộc sống của tác giả, đồng thời nhấn mạnh sự khác biệt giữa lối sống của ông với những người khác. Liệt kê những vật dụng cụ thể giúp người đọc hình dung rõ nét hơn về cuộc sống an nhàn, tự tại của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Câu 4: Quan niệm dại - khôn của tác giả trong hai câu thơ “Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ/ Người khôn, người đến chốn lao xao” rất đặc biệt. Tác giả coi việc tìm đến sự yên tĩnh, vắng vẻ là biểu hiện của sự “dại”, ngược lại, việc theo đuổi danh lợi, sống trong chốn xô bồ lại là biểu hiện của sự “khôn”. Đây là một quan niệm đảo ngược, thể hiện sự chối bỏ danh lợi, đề cao sự thanh cao, tự tại của tác giả.
Câu 5: Qua bài thơ, ta thấy vẻ đẹp nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm là sự kết hợp hài hòa giữa sự thanh cao, giản dị và trí tuệ sâu sắc. Ông không màng danh lợi, sống cuộc đời đạm bạc, gần gũi với thiên nhiên. Tuy nhiên, ông lại không hề tầm thường mà sở hữu một tâm hồn nhạy cảm, một tư tưởng sâu sắc, thể hiện qua quan niệm sống khác biệt và sự tự tại, ung dung trước phú quý. Ông là hình ảnh tiêu biểu của người trí thức tài hoa, thanh cao trong lịch sử Việt Nam.
câu1:
Nguyễn Trãi, trong Chiếu cầu hiền, đã thể hiện nghệ thuật lập luận sắc bén và thuyết phục để kêu gọi nhân tài ra giúp nước. Trước hết, ông sử dụng lối lập luận chặt chẽ, đi từ thực tiễn đến lý lẽ. Ông khẳng định vai trò quan trọng của hiền tài trong việc giúp nước thịnh vượng, lấy đó làm cơ sở để kêu gọi những người tài giỏi ra giúp vua trị quốc. Tiếp đó, Nguyễn Trãi vận dụng nghệ thuật thuyết phục bằng việc sử dụng giọng điệu chân thành, khiêm nhường. Thay vì dùng mệnh lệnh cứng nhắc, ông lại tha thiết bày tỏ mong muốn chiêu hiền đãi sĩ, thể hiện sự tôn trọng với nhân tài. Ông khéo léo viện dẫn điển tích, nhắc đến các bậc minh quân trong lịch sử từng trọng dụng nhân tài để củng cố lập luận của mình. Ngoài ra, cách sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Trãi cũng rất giàu cảm xúc, vừa trang trọng, vừa gần gũi, tạo sức lay động mạnh mẽ. Tất cả những yếu tố trên đã giúp Chiếu cầu hiền trở thành một áng văn chính luận mẫu mực, thể hiện tài năng và tâm huyết của Nguyễn Trãi đối với đất nước.
câu 2:
Thân Nhân Trung, một danh sĩ nổi tiếng thời nhà Trần, từng khẳng định: "Hiền tài là nguồn sức mạnh của quốc gia, nếu nguồn sức mạnh này phát triển thì đất nước càng mạnh mẽ và phồn thịnh, ngược lại, nếu suy yếu thì quốc gia trở nên yếu đuối và tụt hậu." Câu nói này thể hiện sự hiểu biết sâu sắc về vai trò của người tài đối với sự phát triển của một quốc gia. Trong xã hội hiện đại, vai trò của người hiền tài ngày càng được thúc đẩy, nhưng thực trạng "chảy máu chất xám" đang là một thách thức đối với quá trình phát triển và hội nhập quốc tế của đất nước.
Hiện nay, việc các trí thức trẻ, có tri thức và tài năng quyết định rời bỏ Việt Nam để định cư và làm việc ở nước ngoài đã tạo ra tình trạng "khan hiếm" nhân tài cho đất nước. Điều này là một hiện tượng chảy máu chất xám không chỉ Việt Nam mà nhiều quốc gia đang phát triển khác trên thế giới phải đối mặt.Việt Nam, mảnh đất "địa linh nhân kiệt", đã sinh ra nhiều danh nhân lừng danh trong lịch sử như Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, đại thi hào Nguyễn Du và lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh. Hiền tài luôn có, nhưng đáng tiếc, xã hội hiện đại đã có nhiều người tài từ chối làm việc tại Việt Nam để đóng góp cho một quốc gia hiện đại và phát triển hơn. Điều này không thể trách nhiệm họ, bởi tất cả đều muốn làm việc trong môi trường tốt hơn, nơi họ có cơ hội phát triển tài năng và đam mê của mình.
Tuy nhiên, đã có không ít trường hợp người tài quyết định trở về Việt Nam để đóng góp cho đất nước, nhưng họ gặp khó khăn trong việc phát triển tài năng do thiếu điều kiện và sự hỗ trợ thích hợp. Điều này đã dẫn đến lãng phí của những tài năng đáng quý. Để phát triển và đưa Việt Nam đến vị thế vinh quang, cần kết hợp tinh thần và ý thức trách nhiệm đối với đất nước cùng với chính sách thu hút hiền tài từ phía nhà nước.
Câu 1: Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong bài chiếu là nghị luận.
Câu 2: Chủ thể bài viết là vua Lê Lợi.
Câu 3: Mục đích chính của văn bản là kêu gọi các quan đại thần tiến cử người hiền tài giúp nước. Những đường lối tiến cử người hiền tài được đề cập gồm: tiến cử người ở triều đình hoặc thôn dã, bất kể đã ra làm quan hay chưa; thưởng cho người tiến cử được người tài; tích cực tìm kiếm người tài ở mọi nơi, kể cả những người bị khuất hoặc ẩn mình.
Câu 4: Để minh chứng cho luận điểm “khi có được nước rồi, việc đầu tiên vua cần làm là chọn người hiền tài về giúp cho đất nước”, người viết đã đưa ra dẫn chứng về các đời vua trước, ví dụ như các quan đời Hán, Đường đều đề bạt lẫn nhau, như Tiêu Hà tiến cử Tào Tham, Ngụy Vô Tri tiến cử Trần Bình,... Cách nêu dẫn chứng của người viết rất cụ thể, rõ ràng, thuyết phục, dựa trên những sự kiện lịch sử có thật, nhằm khẳng định tầm quan trọng của việc trọng dụng hiền tài.
Câu 5: Thông qua văn bản, ta thấy chủ thể bài viết (Vua Lê Lợi) là người có tầm nhìn xa trông rộng, thấu hiểu tầm quan trọng của việc trọng dụng hiền tài để xây dựng đất nước. Ông cũng là người khiêm nhường, cầu hiền, lo lắng cho vận mệnh đất nước, và rất trọng dụng người tài.