

Hà Thị Quỳnh Anh
Giới thiệu về bản thân



































Câu 2:
Để xây dựng một xã hội như hiện tại, con người đã dành rất nhiều công sức và tri thức của mình để làm phong phú và phát triển nó. Tuy nhiên, một hiện tượng đáng tiếc hiện nay chính là tình trạng mất mát tri thức, hay còn gọi là "chảy máu chất xám." Khái niệm này ẩn dụ tình hình người tài và trí thức Việt Nam đang có xu hướng di cư và làm việc cho lợi ích của các quốc gia nước ngoài thay vì đóng góp cho đất nước của họ. Ngoài ra, chảy máu chất xám còn ám chỉ việc ý tưởng và sáng kiến của con người bị sao chép và lan truyền một cách rộng rãi trên thị trường mà không có sự kiểm soát về chất lượng.
Một hiện thực buồn nữa là nhiều người tài năng sau khi du học ở nước ngoài quyết định định cư tại đó và đóng góp cho đất nước của họ, trong khi đất nước Việt Nam đang cần "hít thở" những tài năng đó. Một ví dụ điển hình là chương trình Đường lên đỉnh Olympia, trong đó đa số các quán quân sau khi du học ở nước ngoài đều chọn ở lại đó và làm việc.
Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là do ý thức cá nhân, mong muốn sống trong môi trường tốt hơn, tiện nghi hơn, và đôi khi quên đi nguồn gốc của họ. Nguyên nhân khách quan bao gồm cơ sở vật chất nước nhà chưa đủ để đáp ứng nhu cầu làm việc và nghiên cứu của con người, cũng như chế độ đãi ngộ chưa tương xứng với công sức của họ.
Để khắc phục tình trạng này, mọi người cần nhận thức đúng đắn, sẵn sàng đóng góp cho đất nước, và hãy bỏ qua lợi ích cá nhân. Nhà nước cũng cần áp dụng các biện pháp đặc biệt để thu hút nhân tài về nước, đầu tư vào cơ sở hạ tầng và trả công xứng đáng cho họ. Mỗi người có thể đóng góp bằng những hành động nhỏ, nhưng chúng ta cần thấu hiểu giá trị to lớn của việc sống và đóng góp cho một đất nước giàu đẹp và văn minh hơn.
Câu 1: Phương thức biểu đạt chính: nghị luận
Câu 2: Chủ thể bài viết là vua Lê Lợi
Câu 3: Mục đích chính của văn bản: Kêu gọi việc tiến cử và tự tiến cử người hiền tài để giúp vua Lê Lợi xây dựng đất nước
Những đường lối tiến cử được đề ra trong văn bản:
-Các văn võ đại thần, công hầu, đại phu từ tam phẩm trở lên đều phải cử người có tài, bất kể là ở triều đình hay thôn dã, đã xuất sĩ hay chưa
-Người có tài kinh luân mà bị khuất hoặc hào kiệt náu mình nơi làng quê, binh lính cũng có thể tự tiến cử
-Những người tiến cử được hiền tài sẽ được thưởng tuỳ theo khả năng của người được tiến cử
Câu 4: Dẫn chứng minh chứng cho luận điểm: Người viết nêu ra những tấm gương điển hình từ thời Hán và Đường:
-Tiêu Hà tiến cử Tào Tham, Nguy Vô Tri tiến cử Trần Bình
-Địch Nhân Kiệt tiến cử Trương Cửu Linh, Tiêu Tung tiến cử Hàn Hưu
Nhận xét: Các dẫn chứng được chọn lọc kỹ lưỡng, có tính điển hình cao và phù hợp với bối cảnh nghị luận. Tác giả không chỉ kể tên mà còn nhấn mạnh vai trò của việc tiến cử trong sự thành công của các triều đại, từ đó tăng tính thuyết phục
Câu 5: Nhận xét về phẩm chất của chủ thể bài viết:
-Có trách nhiệm: Vua Lê Lợi tự nhận trách nhiệm nặng nề trong việc trị quốc và luôn mong muốn tìm người tài giúp sức
-Khiêm tốn và cầu thị: Ông không câu nệ tiểu tiết, sẵn sàng chấp nhận cả những người tự tiến cử
-Sáng suốt và công bằng: Đưa ra chính sách thưởng phạt rõ ràng trong việc tiến cử hiền tài, dựa trên tài năng và đức độ
-Quan tâm đến hiền tài: Hiểu rõ vai trò quan trọng của nhân tài trong việc xây dựng đất nước và sẵn lòng trọng dụng người tài tử mọi tầng lớp
Câu 1:
Hãy dành thời gian để quan sát những người xung quanh. Bạn sẽ nhận ra, những người ỉ lại, luôn trông chờ vào người khác, không chịu chủ động trong công việc của mình sẽ có kết quả khác hoàn toàn với người luôn chủ động trong lối sống của mình. Họ luôn có những thành công những thành tựu của bản thân trong cuộc sống.
Khi còn trẻ, còn nhiều thời gian để bắt đầu, để tạo ra cho bản thân những cơ hội hãy chủ động làm những điều tốt nhất có thể. Chủ động để bản thân có thể vượt qua những thử thách mà bản thân chưa từng trải qua, những mục tiêu đã nằm trong ghi chú từ lâu, những ước mơ đã nảy mầm trong lòng. Hãy cho bản thân trải nghiệm những điều đó bằng sự chủ động trong cách sống của mình. Sự chủ động thật đáng trân trọng nhưng cũng buồn thay những người luôn để mình trong trạng thái thụ động. Làm cho bản thân bỏ lỡ nhiều cơ hội tốt để phát triển, nâng cao giá trị, sự hiểu biết cho bản thân. Hãy sống sao cho bản thân không cảm thấy hối tiếc vì những gì mình đã làm.
Câu 2:
Nguyễn Trãi trong lòng người dân là một vị anh hùng ngoài ra trên thế giới ông còn là một nhà văn hoá lớn. Sự nghiệp văn học của ông là cả kho tàng quý giá về cả văn chính luận và thơ trữ tình.
Bài thơ Cảnh ngày hè là một trong những sáng tác tiêu biểu của ông. Bài thơ nằm trong phần Bảo kính cảnh giới và là bài thơ số 43.
Rồi hóng mát thuở ngày trường
Hoè lục đùn đùn tán rợp gương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương
Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương”
Bài thơ “Cảnh ngày hè” của Nguyễn Trãi đã cho thấy một tâm hồn chan chứa tình yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu nhân dân và yêu đất nước của nhà thơ.
Trong bức tranh đậm màu, nền trời chiều ráng đỏ, một ngôi lầu vắng lặng, cây hoè cổ thụ ngoài sân tán xanh thẫm, che rợp, bên hiên nhà cây thạch lựu sắc đỏ. Vài ba chú ve trên các cành cây. Ao sen hồng và xa xa là làng chài đang họp chợ. Có một người ngồi trên lầu trâm ngâm. Xem tranh, trước hết ta thấy một tư thế của con người ngồi đó. Câu mở đầu “hóng mát” - ngoạn cảnh nhàn nhã, thảnh thơi.
Nên nhớ, đây là bức tranh thơ của vị tướng cầm quân từng xông pha trận mạc một thời, từng “đau lòng nhức óc” vì vận nước từng cùng Lê Lợi “dựng cấu trúc ngọn cờ phấp phới” và sau này sắm vai ẩn sĩ mà tấm lòng vì dân nước không lúc nào yên: “Đêm ngày cuồn cuộn nước triều dâng”. Đặt trong nỗi truân chuyên của cuộc đời Nguyễn Trãi, mới thấy quý cái giây phút ngắn ngủi hiếm hoi này, mới thấy cái tư thế ung dung thưởng ngoạn kia là sự hưởng thụ chân chính. Sau tư thế ấy, thấy cả cái không khí yên bình của cả một làng quê, đất nước vừa qua cơn binh lửa.
Con người này có ánh mắt tinh tế, say mê. Người ngắm cảnh có đôi mắt rất sành: ba loại cây, ba dáng vẻ, không trùng lặp. Tả cây, mà lộ ra khuôn mặt của mùa hè. Cây hòe: tán xanh xum xuê, toả rộng - sức sống vươn cao. Thạch lựu: sắc đỏ - rực rỡ của tố chất khoẻ mạnh. Sen hồng: đậm hương - tâm hồn nồng hậu, thanh cao. Ba loại cây, ba dáng vẻ, ba màu sắc nửa (xanh, đỏ, hồng) đều có hồn. Ngôn ngữ của thơ thay cho chất liệu màu của họa là lời nói sống động của đời thường. Chữ “đùn đùn” khiến ta cảm nhận được sự sống đang nảy nở mạnh mẽ, trông thấy được bằng mắt thường. Chữ “phun” còn lạ hơn. Không tả hoa đỏ, mà cảm nhận cây lựu đang phun, đang tuôn ra sắc đỏ. Sen hồng cố đậm hương. Con ve kia cũng gắng hết sức trong những tiếng kêu cuối cùng. Chợ ở làng chài đang náo nhiệt nên vọng xa lao xao...
Ta bất ngờ nhận ra điều kì lạ. Con người hoạ sĩ trong thi nhân Nguyễn Trãi thế kỉ XV ở Việt Nam có gì rất gần gũi đại danh hoạ Hà Lan thế kỉ XIX, V.Van-gốc. Không phải ở những sắc màu được sử dụng, mà ở cách diễn tả nó. Van-gốc vẽ đồng lúa ta cứ ngỡ cánh đồng bốc cháy. Hàng cây bên đường cũng quằn quại vệt lửa. Van-gốc đốt cháy mình trong tranh. Nguyễn Trãi cũng đốt cháy mình trong thơ. Chữ “đùn đùn”, “phun”, “tiễn”, “lao xao”, “dắng dỏi” là lửa sống rừng rực trong lòng Ức Trai mặc cho do thời thế ông đang phải lui về quy ẩn “Rồi, hóng mát thuở ngày trường”.
Trong bức tranh này, thính giác nhạy bén đã giúp Nguyễn Trãi “vẽ” cảnh bằng nhạc. Xa xa, chợ cá không rõ hình, song âm thanh “lao xao” chở hồn đến cho người đọc cái rộn ràng nhộn nhịp, náo nhiệt của cuộc sống thanh bình. Nếu “lao xao” là khúc hòa tấu của đời sống dân sinh, thì “dắng dỏi cầm ve” tấu lên âm thanh của cây đàn độc huyền, ngân lên thiết tha cuối chiều, vấn vương nét quý tộc, lầu cao đơn độc. Hai phong điệu dân dã và quý tộc hoà hợp, bởi chất keo dính của đời thường, đậm đà hơi thở sống.
Cho nên vẽ bức tranh này đâu chỉ là chuyện của giác quan chuyên nghiệp họa sĩ hay thi sĩ mà là năng lực, phẩm chất của tâm hồn - tâm hồn tinh tế, đằm thắm của một con người hết mực yêu đời, say mê cuộc sống.
Bức tranh “Cảnh ngày hè” có một lời bình - một suy ngẫm đứng riêng, độc lập:
“Dễ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương”
Mạch thơ từ hướng ngoại sang hướng nội. Từ miêu tả sang biểu cảm, khách thể sang chủ thể. Nguyễn Trãi đã trực tiếp bộc lộ nỗi lòng mình trong hai câu thơ kết. Ấy là một giấc mơ, và cả một học thuyết nhân sinh ấp ủ bật ra thành lời. Giấc mơ, đó là giấc mơ Nghiêu Thuấn. Giấc mơ ngàn đời của những con người Phương Đông sống trong thời trung đại. Mong sao có một bậc vua hiền để được yên ổn ấm no hạnh phúc. Trước hơn bốn trăm năm, thời Tiền Lê, Pháp Thuận đã phát biểu: “Vận nước như mây cuốn/Trời Nam mở thái bình/Vô vi trên điện các/Xứ xứ tức đao binh”. Vận nước có rối ren thế nào cũng mong hai chữ thái bình, nhà vua đừng làm điều gì nhiễu nhương thì khắp nơi đều hết nạn binh đao. Sau mấy mươi năm, vị vua hiền minh Lê Thánh Tông cố sức mình cũng chỉ để thỏa lòng mong muốn:
“Nhà nam nhà bắc đều có mặt
Lừng lẫy cùng ca khúc thái bình”
Bây giờ đây, ưu tư thế cuộc, nhìn đời - từ cỏ cây, vạn vật đến sinh linh vui sống như thế, Nguyễn Trãi lại khắc khoải khát vọng muôn năm này. Mong trị quốc, bình thiên hạ sao cho dân giàu nước mạnh là giấc mơ của một bậc đại nhân.
Nếu giấc mơ kia là của bậc đại nhân, thì cái lõi tư tưởng của giấc mơ là của bậc đại trí. Đó là tư tưởng “thân dân” (dĩ dân vi bản) từng được vạch rõ trong Bình Ngô đại cáo - “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”. Đó là tư tưởng lớn. Với Nguyễn Trãi, tư tưởng ấy từng sôi sục trong hành động, khắc khoải trong tâm tưởng, rát bỏng trong thi ca. Cả bài thơ 8 chữ, đến tận dòng cuối cùng, chữ “dân” mới bật ra, song chính là cái nền tư tưởng, tình cảm của tác giả, cái hồn của bài thơ. Là sợi chỉ đỏ xâu chuỗi cả tám câu thơ lại.
“Cảnh ngày hè” không định giáo huấn chung. Trước đời sống đang dâng trào, yên lành thế, Nguyễn Trãi tự răn mình, phải làm sao cho cuộc sống này trở thành mãi mãi và chỉ khắc khoải một nỗi “tiên ưu” ấy mà thôi.
Câu1: Thể thơ thất ngôn bát cú đường luật
Câu 2: Những hình ảnh nói về nét sinh hoạt hằng ngày đạm bạc, thanh cao của tác giả: thu ăn măng trúc, đông ăn giá, xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Câu 3: -Biện pháp tu từ liệt kê. Tác dụng: Tạo sự cân xứng, nhịp nhàng, hài hoà cho lời thơ, nhấn mạnh sự lựa chọn phương châm sống, cách cư xử của tác giả vừa thể hiện sắc thái trào lộng, mỉa mai đối với cách sống ham danh vọng, phú quý
Câu 4: Quan niệm khôn-dại của tác giả:
-Dại:"Tìm nơi vắng vẻ"- nơi tĩnh tại của thiên nhiên, thảnh thơi của tâm hồn
-Khôn:"Đến chốn lao xao"- chốn cửa quyền bon chen, thủ đoạn sát phạt
Đó là cách nói ngược: khôn mà khôn dại, dại mà dại khôn của tác giả
Câu 5: Là người sống giản dị, thanh bạch
-Là người có trí tuệ, cốt cách thanh cao
-Là người bản lĩnh: coi thường danh lợi