

Bùi Thị Thảo Ngân
Giới thiệu về bản thân



































Câu 1 :
Trong "Chiếu cầu hiền tài", Nguyễn Trãi đã thể hiện một nghệ thuật lập luận sắc sảo và thuyết phục, khiến người đọc không thể không bị thuyết phục bởi tầm nhìn và sự sâu sắc của ông. Với ngôn ngữ tài tình và phong cách biểu đạt độc đáo, Nguyễn Trãi đã tạo nên một văn bản không chỉ có giá trị về mặt nghệ thuật mà còn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
Bằng cách đưa ra các dẫn chứng lịch sử từ triều đại Hán và Đường, Nguyễn Trãi đã chứng minh rằng việc tìm kiếm và trọng dụng người hiền tài là chìa khóa để xây dựng và phát triển một quốc gia hùng mạnh. Ông đã chỉ ra rằng những vị vua sáng suốt luôn biết cách tìm kiếm và trọng dụng người hiền tài, và rằng việc này không nên bị giới hạn bởi địa vị hay nền tảng xã hội.
Nguyễn Trãi đã sử dụng ngôn ngữ một cách tài tình, kết hợp giữa logic và lý lẽ để củng cố luận điểm của mình. Ông đã tạo nên một văn bản không chỉ có giá trị về mặt nghệ thuật mà còn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Với tầm nhìn xa và sự sâu sắc về việc xây dựng và phát triển một quốc gia, Nguyễn Trãi đã thể hiện sự hiểu biết và sự am hiểu về chính trị và xã hội.
Tổng thể, "Chiếu cầu hiền tài" là một tác phẩm văn học Việt Nam có giá trị cả về mặt nghệ thuật và ý nghĩa thực tiễn. Nó không chỉ thể hiện sự sắc sảo và thuyết phục của Nguyễn Trãi mà còn là một tác phẩm có tầm nhìn xa và sâu sắc về việc xây dựng và phát triển một quốc gia. Với nội dung sâu sắc và phong cách biểu đạt độc đáo, "Chiếu cầu hiền tài" là một tác phẩm văn học Việt Nam không thể bỏ qua.
Câu2:
Hiện nay, Việt Nam đang phải đối mặt với một hiện tượng đáng lo ngại, đó là "chảy máu chất xám". Hiện tượng này xảy ra khi các cá nhân có trình độ cao, có kỹ năng và kiến thức chuyên môn tốt, rời bỏ đất nước để tìm kiếm cơ hội việc làm và phát triển sự nghiệp ở nước ngoài.
Hiện tượng "chảy máu chất xám" tại Việt Nam hiện nay có nhiều nguyên nhân. Một trong những nguyên nhân chính là do thiếu cơ hội việc làm và phát triển sự nghiệp tại Việt Nam. Nhiều người có trình độ cao, có kỹ năng và kiến thức chuyên môn tốt, nhưng không tìm được việc làm phù hợp với khả năng của mình. Điều này dẫn đến sự thất vọng và bất mãn, khiến họ quyết định rời bỏ đất nước để tìm kiếm cơ hội mới.
Một nguyên nhân khác là do mức lương và phúc lợi tại Việt Nam còn thấp so với các nước khác. Nhiều người có trình độ cao, có kỹ năng và kiến thức chuyên môn tốt, nhưng mức lương và phúc lợi mà họ nhận được tại Việt Nam không tương xứng với khả năng của mình. Điều này khiến họ cảm thấy không được đánh giá cao và không có động lực để tiếp tục làm việc tại Việt Nam.
Hiện tượng "chảy máu chất xám" tại Việt Nam hiện nay có nhiều hậu quả tiêu cực. Một trong những hậu quả chính là sự thiếu hụt nguồn nhân lực có trình độ cao và kỹ năng chuyên môn tốt. Điều này ảnh hưởng đến sự phát triển của các ngành kinh tế và xã hội, khiến Việt Nam trở nên kém cạnh tranh hơn trên trường quốc tế.
Để giải quyết hiện tượng "chảy máu chất xám" tại Việt Nam, cần có những giải pháp cụ thể và hiệu quả. Một trong những giải pháp chính là tạo ra cơ hội việc làm và phát triển sự nghiệp cho những người có trình độ cao và kỹ năng chuyên môn tốt. Điều này có thể được thực hiện thông qua việc đầu tư vào các ngành kinh tế và xã hội, tạo ra các công việc có mức lương và phúc lợi tốt.
Một giải pháp khác là cải thiện mức lương và phúc lợi cho những người có trình độ cao và kỹ năng chuyên môn tốt. Điều này có thể được thực hiện thông qua việc tăng mức lương tối thiểu, cải thiện các chính sách phúc lợi và tạo ra các chương trình đào tạo và phát triển nhân lực.
Tổng kết lại, hiện tượng "chảy máu chất xám" tại Việt Nam hiện nay là một vấn đề nghiêm trọng và cần được giải quyết một cách hiệu quả. Cần có những giải pháp cụ thể và hiệu quả để tạo ra cơ hội việc làm và phát triển sự nghiệp cho những người có trình độ cao và kỹ năng chuyên môn tốt, cũng như cải thiện mức lương và phúc lợi cho họ.
Câu 1: Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong bài là phương thức biểu đạt trực tiếp.
Câu 2: Chủ thể bài viết là vua Lê Lợi.
Câu 3: Mục đích chính của văn bản trên là kêu gọi và hướng dẫn các quan lại trong triều đình về việc tiến cử người hiền tài để giúp đỡ việc quản lý và phát triển đất nước. Đường lối tiến cử người hiền tài được đề cập trong văn bản bao gồm việc lựa chọn người có tài văn võ, có thể trị dân và coi quân, và không phân biệt địa vị hay nền tảng xã hội.
Câu 4: Để minh chứng cho luận điểm rằng việc chọn người hiền tài là việc đầu tiên cần làm khi có được nước, người viết đã đưa ra dẫn chứng về các ví dụ lịch sử trong triều đại Hán và Đường, như Tiêu Hà, Nguy Vô Tri, Địch Nhân Kiệt, Tiêu Tung, v.v. Cách nêu dẫn chứng của người viết là cụ thể, chi tiết và có tính lịch sử, giúp tăng cường tính thuyết phục cho bài viết.
Câu 5: Thông qua văn bản trên, phẩm chất của chủ thể bài viết, vua Lê Lợi thể hiện là rất trọng tài, biết rõ tầm quan trọng của việc chọn người hiền tài để giúp đỡ việc quản lý đất nước. Ông còn thể hiện sự quan tâm sâu sắc đến việc phát triển nhân tài, không phân biệt địa vị hay nền tảng xã hội, và luôn tìm kiếm những người có tài để trao cơ hội phục vụ đất nước.
Câu 1
Mỗi người có một cuộc sống riêng, một con đường riêng để hoàn thiện và phát triển bản thân. Chính vì thế, chúng ta cần sống có định hướng và chủ động trong cuộc sống của bản thân mình. Chủ động trong cuộc sống bản thân là việc chúng ta luôn biết làm chủ cuộc sống của mình, đề ra mục tiêu và thực hiện chúng một cách hoàn thiện, không để người khác phải nhắc nhở những công việc liên quan đến bản thân mình. Chủ động trong cuộc sống bản thân có ý nghĩa to lớn đối với cuộc sống con người, nó làm cho con người năng động hơn, sáng tạo hơn, giúp ích rất nhiều cho cuộc sống. Cuộc sống này luôn tồn tại đầy rẫy những bất ngờ, thuận lợi và khó khăn. Con người vì thế rất cần sự chủ động để có tâm thế vững vàng khi đứng trước phong ba của cuộc đời và tạo lập cho mình thói quen chủ động trong tất cả lĩnh vực của cuộc sống. Việc sống ở thế chủ động sẽ giúp con người nắm bắt được cơ hội, cục diện tốt hơn, từ đó tạo ra những thành công cho bản thân mình và hạn chế được những tình huống bất ngờ, những ảnh hưởng tâm lí khi sự việc ập đến. Để phát triển sự chủ động trong con người chúng ta cần phải đặt ra cho mình những mục tiêu, kế hoạch sống rõ ràng, quyết đoán trong suy nghĩ và hành động, có tinh thần cầu tiến và thái độ học hỏi và không quay đầu trước mọi khó khăn, thử thách. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần phê phán những con người có lối sống dựa dẫm vào người khác, không cố gắng vươn lên, không làm chủ được cuộc sống của mình hoặc quá lười biếng, phó mặc cho số phận. Cuộc sống của mỗi người khác nhau và có tốt hơn hay không là cho chúng ta kiểm soát tư tưởng, hành động. Hãy trở thành một công dân tốt, có ích cho xã hội và tạo ra nhiều giá trị tốt đẹp hơn
Câu 2
Nguyễn Trãi – đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa, một nhà tư tưởng vĩ đại của dân tộc. Ông đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị trong đó có Quốc âm thi tập – Tập thơ Nôm sớm nhất hiện còn lưu giữ được – thể hiện vẻ đẹp tâm hồn tác giả và những sáng tạo trong nghệ thuật thơ Đường của Nguyễn Trãi. Tập thơ gồm 254 bài chia thành 53 chủ đề: Tự than, Bảo kính cảnh giới, Hoa mộc môn, … Riêng nhóm thơ Bảo kính cảnh giới có 61 bài chiếm vị trí quan trọng trong tập thơ. Điều đáng nói là thơ Bảo kính cảnh giới của Nguyễn Trãi không giáo huấn, khuyên răn triết lí. Đó là thơ đích thực, thể hiện tâm hồn thi sĩ. Bài thơ Bảo kính cảnh giới số 43 hay còn gọi là Cảnh ngày hè là một bài thơ tả cảnh ngụ tình, tình hòa trong cảnh, thể hiện đậm nét cuộc sống, tâm sự của tác giả. Bài thơ đã toát lên vẻ đẹp của hồn thơ Nguyễn Trãi
Rồi hóng mát thuở ngày trường,
Hoè lục đùn đùn tán rợp trương.
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tịn mùi hương.
Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.
Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương”.
Thiên nhiên vốn là mảnh đất vô cùng màu mỡ của biết bao thi nhân trung đại cày xới và cũng, là nguồn thi hứng không bao giờ vơi cạn Nguyễn Trãi. Nhà thơ sống giữa thiên nhiên, bầu bạn cùng thiên nhiên, và lấy từ thiên nhiên những bài học quý giá làm “gương báu răn mình” để rồi ghi lại trong tập thơ “Bảo kính cảnh giới”. Một nhân cách thanh cao “tỏa sáng tựa sao khuê”, một tấm lòng cao cả, vẫn luôn tha thiết với nhân dân, với đất nước dẫu trong tình cảnh ngặt nghèo bị nghi kị, dèm pha hay ngay cả khi có cuộc sống yên bình, nên thơ giữa thiên nhiên của Nguyễn Trãi đã đến với người đọc chính qua những vần thơ ấy. Tám câu thơ của “Cảnh ngày hè” đã góp thêm nét vẽ để bức chân dung tâm hồn của Ức Trai hiện lên rõ nét nhất. Sáu câu thơ đầu tiên trong bài là bức tranh thiên nhiên rực rỡ, tràn trề sự sống của mùa hè và một không khí náo nhiệt, rộn ràng của cuộc sống thường nhật vẫn đang tiếp diễn nơi thôn quê. Thế nhưng, sau bức tranh tràn trề nhựa sống ấy, hai câu thơ cuối bài thể hiện sâu sắc cho người đọc thấy được tấm lòng tha thiết với nhân dân, đất nước của Ức Trai.
Ở phần đầu của bài, với sáu câu thơ, tác giả đã cho chúng ta cảm nhận được sự giao cảm với thiên nhiên tạo vật của hồn thơ Ức Trai. Nguyễn Trãi là một nhà thơ yêu thiên nhiên. Với ông, thiên nhiên là anh em, là bầu bạn:
“Núi láng giềng chim bầu bạn
Mây khách khứa nguyệt anh tam
Tâm hồn nhà thơ luôn rộng mở đón nhận thiên nhiên trong mọi hoàn cảnh: thời chiến, thời bình, khi buồn, khi vui, lúc bận rộn hay khi thư nhàn:
Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén
Ngày vắng xem hoa bợ cây
Ở bài thơ này, Nguyễn Trãi đón nhận thiên nhiên trong lúc:
Rồi hóng mát thuở ngày trường”.
Có ý kiến cho rằng, đó là thời bình, Nguyễn Trãi đang tham gia triều chính, dốc lòng phụng sự đất nước. Cũng có ý kiến cho rằng, lúc đó là khoảng 1438 – 1439 khi Nguyễn Trãi xin về trông coi chùa Tư Phúc ở Côn Sơn, thực tế là về ở ẩn, lánh xa bụi trần. Thế nhưng, dù là khoảng thời gian nào thì thời điểm được ghi lại trong thơ cũng là thời điểm hiếm hoi trong cuộc đời Nguyễn Trãi. Bởi vì “rồi” là rỗi rãi, “ngày trường” là ngày dài. Một ngày như thế trong đời Nguyễn Trãi đâu nhiều? Ông là người thân không nhàn mà dù thân có nhàn thì tâm cũng không nhàn. Tấc lòng ưu dân ái quốc trong ông “đêm ngày cuồn cuộn nước triều Đông”. “Một phút thanh nhàn trong thuở ấy” đối với Nguyễn Trãi đối với Nguyễn Trãi đáng quý biết bao. Thời gian rảnh rỗi, tâm hồn thư thái thảnh thơi, đất trời trong lành mát mẻ, … Thật hiếm hoi mới có được một hoàn cảnh lí tưởng đến thế để yêu say cảnh đẹp. Thi nhân xưa đến với thiên nhiên thường dùng bút pháp vịnh, nhưng ở đây Nguyễn Trãi lại thiên về bút pháp tả, không chỉ gợi lên khung cảnh, mà còn thể hiện cụ thể những thanh nha, an yên của cảnh vật ấy ra trước mắt người đọc. những câu thơ tiếp theo thực sự đã gợi lên trước mắt người đọc một bức tranh thiên nhiên mùa hè thật sinh động và giàu sức sống:
“Hoè lục đùn đùn tán rợp trương.
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tịn mùi hương.
Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”.
Tâm hồn Nguyễn Trãi như hòa cùng cảnh vật, nắm bắt lấy cái hồn của cảnh vật để làm nên sức sống tưng bừng của bức tranh mùa hè. Cây hoè xanh tốt đang xòe tán rộng. Động từ “đùn đùn” đảo lên trước cụm từ “tán rợp giương” gợi cảm giác màu xanh đậm (xanh lục) mở ra, tỏa rộng theo cả chiều cao (đùn đùn) lẫn chiều rộng (giường). Hoa thạch lựu bên hiên nhà đang “phun” thức đỏ. Động từ “phun” gợi tả những bông hoa lựu như đang nở to thêm nữa, đỏ thắm thêm nữa. Câu thơ gợi lên liên tưởng đến hình ảnh “đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông” của Nguyễn Du. Cùng cảnh tả mùa hè ta thấy hai thi sĩ tài ba đều có cái nhìn tinh tế. Với “lửa lựu lập lòe”, Nguyễn Du thiên về tạo hình gợi hình ảnh bông hoa rung rinh trước gió, lúc ẩn lúc hiện trong đám lá xanh như đốm lửa lúc sáng lúc tắt. Còn ở Cảnh ngày hè, với từ “phun” Nguyễn Trãi thiên về gợi sức sống. Màu đỏ của hoa lựu tuôn trào ra mạnh mẽ. Giữa màu xanh đậm của tán hòe và màu đỏ rực rỡ của hoa lựu là màu hồng bát ngát của áo sen dậy hương thơm “hồng liên trì đã tiễn mùi hương”. Không chỉ vậy, bức tranh ngày hè của Nguyễn Trãi còn được bổ sung thêm một gam màu ấm nóng nữa: màu vàng của ánh chiều tà lúc “tịch dương”. Trong không gian của buổi chiều mùa hè đầy sức sống ấy có những âm thanh “dắng dỏi” của tiếng ve – tiếng ve như tiếng đàn rộn rã và tiếng “lao xao” từ xa vọng lại. Ở đây “lao xao” là âm thanh của cuộc sống con người gợi sự đông đúc, nhộn nhịp của cảnh mua bán ở một chợ cá làng chài. Đó là âm thanh của cuộc sống no đủ, âm thanh được Nguyễn Trãi cảm nhận không chỉ bằng thính giác mà bằng cả tấm lòng hướng về cuộc sống. Bức tranh mùa hè sinh động được tạo nên bởi sự kết hợp hài hòa của đường nét, hình khối (đùn đùn, rợp giương, phun, …), của màu sắc (màu xanh lục của tán hòe, màu đỏ của hoa lựu, màu hồng của hoa sen, màu vàng của nắng chiều), của ánh sáng, của âm thanh (tiếng dắng dỏi của cầm ve, tiếng lao xao của chợ cá). Nhà thơ sử dụng các động từ mạnh cho thấy sức sống của cảnh vật và gợi tính chất của bức tranh. Không gian trong bức tranh mở rộng từ gần – hiên nhà đến xa – chợ cá. Nguyễn Trãi đã hòa màu sắc, âm thanh, đường nét theo quy luật của cái đẹp trong hội họa, âm nhạc làm cho bức tranh thiên nhiên trở nên có hồn, vừa gợi tả vừa sâu lắng. Cảnh sắc thiên nhiên trong cảm nhận và thể hiện của Nguyễn Trãi không phải trong trạng thái tĩnh mà ở trạng thái động, tất cả như đang cựa quậy, đang lan tỏa, đang vươn lên đầy sức sống nhưng cũng không hề thiếu sự tinh tế, hài hòa. Nếu so sánh với sự mộc mạc, thô nhám như trong câu thơ của tác giả thời Hồng Đức, thì quả thực chất thơ của Ức Trai “tình” hơn hẳn:
“Nước nồng sừng sực đầu rô trỗi
Ngày nắng chang chang lưỡi chó lè”.
Nguyễn Trãi đã cảm nhận thiên nhiên bằng tất cả các giác quan từ thị giác, thính giác đến khứu giác, nhưng hơn hết sự cảm nhận đó là bằng cả tâm hồn. Hồn thơ Nguyễn Trãi giao cảm mạnh mẽ và tinh tế của cảnh vật. Bức tranh ngày hè độc đáo và ấn tượng mà người người đọc đang thưởng thức ấy được tạo nên bởi tình yêu thương sâu sắc, bởi tâm hồn nhạy cảm và tài quan sát tinh tế của nhà thơ. Đồng thời cũng nhờ tài sử dụng ngôn ngữ, những từ tượng hình, tượng thanh, từ thuần Việt giàu sức gợi và liên tưởng đã được Nguyễn Trãi sắp xếp đầy tài tình trong những dòng thơ cô đọng và giàu sức gợi. Cội nguồn của bức tranh thiên nhiên sống động ấy chính là tấm lòng thiết tha yêu đời, yêu cuộc sống của tác giả. Cảnh vật thanh bình, yên vui bởi nhà thơ đang thanh thản. Âm thanh “lao xao chợ cá” dội tới từ phía làng chài phải chăng đang thể hiện niềm vui của tác giả trước cảnh làm ăn yên ấm của người dân? Và tiếng cầm ve “dắng dỏi” cất lên phải chăng là những rộn ràng trong lòng Nguyễn Trãi khi thấy nhân dân được no đủ? Nguyễn Trãi yêu thiên nhiên nhưng trước hết tấm lòng ông vẫn tha thiết với con người, với dân, với nước. Cuộc sống của người dân, đặc biệt là những người dân lao động (dân đen, con đỏ). Nguyễn Trãi ước:
“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương”.
Nguyễn Trãi đã sử dụng một điển tích trong văn học Trung Quốc để nói lên mong ước của mình: Ngu cầm – đàn của vua Nghiêu vua Thuấn. Nguyễn Trãi mong có chiếc đàn của vua Nghiêu – Thuấn để nhân dân bốn phương được giàu có yên vui. Ta có thể hiểu nhìn dân giàu đủ Nguyễn Trãi mong có cây đàn của vua Thuấn để gảy khúc Nam Phong, ca ngợi cuộc sống của dân chúng khắp nơi đang được no ấm. Ta cũng có thể hiểu Nguyễn Trãi ước mong có một thời thái bình đời vua Nghiêu vua Thuấn để nhân dân được thực sự giàu đủ. Nhưng có lẽ với một người như Nguyễn Trãi, ta phải hiểu là ông mong gảy khúc Nam Phong của vua Thuấn để cho nhân dân giàu đủ khắp đòi phương – khắp mọi nơi. Đó là ước mong được hành động vì dân.
Câu kết của bài thơ là một câu thơ sáu chữ ngắn gọn, giọng thơ chắc nịch dồn nén cảm xúc của cả bài. Nguyễn Trãi nhắc đến “dân”. Điểm kết tụ của hồn thơ Ức Trai không phải là thiên nhiên tạo vật mà là ở con người. Lúc rảnh rỗi tưởng như hoàn toàn đắm mình trong thiên nhiên mà Nguyễn Trãi vẫn không nguôi nghĩ về nhân dân. Câu thơ kết đã thể hiện lý tưởng nhân nghĩa mà bao năm Nguyễn Trãi phấn đấu. Suốt cả cuộc đời ông chỉ có một ước mong: mong cho quốc thái dân an:
“Sách một hai phiên làm bầu bạn ;
Rượu năm ba chén đổi công danh.
Ngoài chưng phần ấy cầu đâu nữa ?
Cầu một ngồi coi đời thái bình”.
Bài thơ Cảnh ngày hè ra đời trong thời kỳ trung đại nhưng đã có những cách tân nghệ thuật so với thơ Đường luật: câu thơ thất ngôn xen lẫn lục ngôn, hình ảnh thơ gần gũi với đời thường, ít ước lệ tượng trưng, từ ngữ dân dã. Điều này khiến cho bài thơ thuộc nhóm Bảo kính cảnh giới không nặng tính giáo huấn mà giàu chất thơ, đồng thời cũng gần gũi với đời hơn rất nhiều.
Cảnh ngày hè đã toát lên vẻ đẹp của thơ Nguyễn Trãi: giao cảm tinh tế với thiên nhiên tạo vật, vui trước cuộc sống dân lành no đủ. Từ trong sâu thẳm hồn thơ ấy là khát vọng muốn được giúp đời giúp dân nhiều hơn nữa. Chính điều này đã đem lại ý nghĩa nhân văn sâu sắc cho ngòi bút Ức Trai – người có tấm lòng sáng tựa sao Khuê.
Câu 1
Thể thơ của văn bản tự do bẩy chữ
Câu 2
Những hình ảnh nói về nét sinh hoạt hằng ngày Đạm bạc thanh cao của tác giả
Thu ăn măng trúc Đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao
Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Biện pháp tu từ trong hai câu thơ đó là liệt kê
Tác dụng để tạo ra một hiệu ứng mạnh mẽ nhấn mạnh sự lập đi lập lại của cuộc sống hằng ngày và sự thiếu hứng thú
Câu 4
Quan niệm Dại-khôn của tác giả trong hai câu thơ
ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
người khôn người đến chốn lao xao
Cho thấy sự khác biệt giữa con người dại và người khôn . Con người dại tìm đến sự yên bình và xa lạ trong khi con người khôn lại tìm kiếm sự ồn ao và xô bồ
Câu 5
Từ văn bản trên có thể cảm nhận được vẻ đẹp nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua cách ông biểu đạt tâm tư và quan điểm sống của mình . Ông cho thấy một người có tư duy sâu sắc biết quý trọng những giá trị thực sự trong cuộc sống và không bị lôi cuốn bởi những thú vui hời hợt
Câu 1 (2.0 điểm):
Nhân vật Bê-li-cốp trong đoạn trích là một hình ảnh điển hình của sự sợ hãi và bảo thủ. Ông ta luôn cố gắng giấu mình trong một "bao" vô hình, tránh xa cuộc sống thực và chỉ quan tâm đến những điều cấm đoán và thông tư. Điều này cho thấy rằng Bê-li-cốp là một người sống trong sợ hãi và không dám đối mặt với cuộc sống.
Sự sợ hãi và bảo thủ của Bê-li-cốp đã khiến ông ta trở thành một người cô lập và không có bạn bè. Ông ta chỉ quan tâm đến những điều cấm đoán và thông tư, và không quan tâm đến cảm xúc và nhu cầu của người khác. Điều này cho thấy rằng sự sợ hãi và bảo thủ có thể dẫn đến sự cô lập và không có bạn bè.
Tuy nhiên, nhân vật Bê-li-cốp cũng cho thấy rằng sự sợ hãi và bảo thủ có thể được vượt qua. Ông ta đã cố gắng giấu mình trong một "bao" vô hình, nhưng cuối cùng ông ta vẫn phải đối mặt với cuộc sống. Điều này cho thấy rằng sự sợ hãi và bảo thủ không phải là điều không thể vượt qua.
Câu 2 (4.0 điểm):
Bước ra khỏi vùng an toàn của bản thân là một hành động quan trọng và cần thiết trong cuộc sống. Vùng an toàn là một không gian mà chúng ta cảm thấy thoải mái và an toàn, nhưng nó cũng có thể trở thành một rào cản để chúng ta phát triển và trưởng thành.
Khi chúng ta bước ra khỏi vùng an toàn của bản thân, chúng ta sẽ phải đối mặt với những thách thức và khó khăn mới. Chúng ta sẽ phải học cách thích nghi với những tình huống mới và phát triển những kỹ năng mới. Điều này sẽ giúp chúng ta trở nên tự tin và mạnh mẽ hơn.
Tuy nhiên, bước ra khỏi vùng an toàn của bản thân cũng có thể là một hành động đầy rủi ro. Chúng ta có thể gặp phải những thất bại và khó khăn, và chúng ta có thể cảm thấy không an toàn và thoải mái. Nhưng điều quan trọng là chúng ta phải học cách chấp nhận rủi ro và thất bại, và sử dụng chúng như là cơ hội để học hỏi và phát triển.
Tóm lại, bước ra khỏi vùng an toàn của bản thân là một hành động quan trọng và cần thiết trong cuộc sống. Nó sẽ giúp chúng ta trở nên tự tin và mạnh mẽ hơn, và nó sẽ giúp chúng ta phát triển và trưởng thành. Nhưng điều quan trọng là chúng ta phải học cách chấp nhận rủi ro và thất bại, và sử dụng chúng như là cơ hội để học hỏi và phát triển.
Tôi sẽ giúp bạn trả lời các câu hỏi về đoạn trích "Người trong bao".
Câu 1 (0.5 điểm): Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong bài là phương thức biểu đạt gián tiếp, thông qua việc sử dụng các chi tiết miêu tả và các câu chuyện cụ thể để thể hiện ý nghĩa và cảm xúc của tác giả.
Câu 2 (0.5 điểm): Nhân vật trung tâm của đoạn trích là Bê-li-cốp, một giáo viên dạy tiếng Hy Lạp.
Câu 3 (1.0 điểm): Đoạn trích được kể theo ngôi thứ nhất. Tác dụng của ngôi kể này là tạo ra cảm giác gần gũi và trực tiếp giữa người kể và người đọc, giúp người đọc cảm nhận được cảm xúc và ý nghĩa của câu chuyện một cách sâu sắc hơn.
Câu 4 (1.0 điểm): Những chi tiết miêu tả chân dung nhân vật Bê-li-cốp bao gồm:
- Luôn đi giày cao su, cầm ô và mặc áo bành tô ấm cốt bông.
- Để ô, đồng hồ và dao trong bao.
- Giấu mặt sau chiếc cổ áo bành tô bẻ đứng lên.
- Đeo kính râm, mặc áo bông chần, lỗ tai nhét bông.
- Luôn cho kéo mui lên khi ngồi xe ngựa.
Nhan đề đoạn trích "Người trong bao" được đặt vì Bê-li-cốp luôn cố gắng giấu mình trong một "bao" vô hình, tránh xa cuộc sống thực và chỉ quan tâm đến những điều cấm đoán và thông tư.
Câu 5 (1.0 điểm): Bài học rút ra được từ đoạn trích là tầm quan trọng của việc sống thật và không sợ hãi. Bê-li-cốp là một ví dụ về người sống trong sợ hãi và chỉ quan tâm đến những điều cấm đoán, dẫn đến việc mất đi sự tự do và hạnh phúc thực sự. Đoạn trích khuyên nhủ chúng ta nên sống thật, không sợ hãi và luôn sẵn sàng đối mặt với cuộc sống.