

Đoàn Việt Hà
Giới thiệu về bản thân



































Việc chuyển sang trồng đậu nành trên đất đã từng canh tác các loại cây trồng khác có tác dụng bổ sung và duy trì lượng nitrogen trong đất vì: Đậu nành là cây họ đậu, có khả năng cộng sinh với vi khuẩn Rhizobium trong các nốt sần ở rễ. Vi khuẩn này có khả năng cố định đạm (nitrogen) từ khí quyển thành dạng ammonia (NH₃) mà cây có thể hấp thụ và sử dụng để phát triển ,cây đậu nành cung cấp carbohydrate cho vi khuẩn, và ngược lại, vi khuẩn cung cấp nitrogen cho cây. Khi cây đậu nành tàn lụi và phân hủy, lượng nitrogen đã được cố định trong sinh khối của cây (rễ, thân, lá) sẽ được trả lại cho đất, làm tăng độ phì nhiêu và hàm lượng nitrogen cho các vụ sau. Do đó, việc luân canh hoặc trồng đậu nành giúp cải thiện và duy trì lượng nitrogen tự nhiên trong đất, giảm sự phụ thuộc vào phân bón hóa học chứa nitrogen.
Câu 1:
a. Môi trường nuôi cấy không liên tục là môi trường không được bổ sung chất dinh dưỡng mới và không được lấy đi các sản phẩm trao đổi chất.
Môi trường nuôi cấy liên tục là môi trường thường xuyên được bổ sung chất dinh dưỡng và loại bỏ các sản phẩm trao đổi chất.
b.
Pha tiềm phát (pha lag): Vi khuẩn thích nghi với môi trường, tổng hợp vật chất chuẩn bị cho sự phân chia, số lượng tế bào trong quần thể chưa tăng.
Pha lũy thừa (pha log): Sinh trưởng với tốc độ lớn nhất, số lượng tế bào trong quần thể tăng theo lũy thừa và đạt đến cực đại ở cuối pha.
Pha cân bằng: Số lượng vi khuẩn đạt cực đại và không đổi theo thời gian ,số tế bào sinh ra bằng số tế bào chết đi.
Pha suy vong : Số lượng tế bào trong quần thể ngày càng giảm do cất dinh dượng cạn kiệt, chất độc hại tích lũy càng nhiều.
Câu 1:
Một tác phẩm truyện ngắn hay và chân chính trước hết có lẽ hấp dẫn người đọc bởi hình tượng nghệ thuật độc đáo, điển hình. Với Sê-khốp, con linh điểu của buổi tịch dương trên đồng cỏ dại nước Nga xưa, với hình tượng Bê-li-cốp trong truyện ngắn “Người trong bao” đã cho thấy số phận bi kịch của người dân Nga lúc bấy giờ.Nhân dạng Bê-li-cốp thì hắn dấu mặt trong chiếc áo bành tô, tai nhét bông chứng tỏ hắn sợ nghe, sợ nhìn sợ phải đối mặt với mọi điều xung quanh. Nghề nghiệp của hắn là dạy tiếng Hy Lạp một thứ ngôn ngữ cổ và khó hiểu, trong khi cả thế giới đang không ngừng hướng đến những điều mới mẻ thì hắn đi ngược lại với thế giới, với thực tại.Với mọi người xung quanh, hắn đến nhà và không nói chuyện chỉ ngồi im một chỗ khoảng chừng 15 phút rồi ra về. Điều ấy chứng minh rằng, hắn cũng sợ cô độc, sợ mất mối quan hệ nhưng lại luôn giấu giếm và sợ sệt tất cả mọi thứ, tức là hắn sợ chịu trách nhiệm với lời nói của mình. Đến cả trong tình yêu, dường như hắn cũng muốn nhốt nó vào bao nốt. hắn muốn cầm tù tình yêu của mình, cái bao đấy chính là không được tiếp xúc với cái mới. Như vậy hắn sợ cái mới, mô lệ vào cái cũ, cầm tù chính mình . Qua đó phản ánh chân thực số phận của những người dân Nga dưới chế độ Nga Hoàng nặng nề chuyên chế khiến còn người chết ngay cả khi đang sống,thật đáng sợ biết bao, qua đó bày tỏ niềm cảm thương cho số phận những người dân nước Nga xưa của Sê-khốp. Bằng tài năng xây dựng những hình tượng điển hình hấp dẫn và lôi cuốn người đọc Sê-khốp đã giúp người đọc nhìn thấy sâu sắc và chân thật xã hội Nga lúc bấy giờ, bày tỏ niềm cảm thương sâu sắc cho những thân phận bi kịch ấy.
Câu 2:
Cuộc sống là một vòng tuần hoàn không ngừng thay đổi, và nếu chúng ta cứ mãi sống gò bó trong khuôn mẫu, trong chiếc vỏ bọc do chính mình tạo ra, ta sẽ không thể phát triển và tiến bộ hơn. Do đó, những người trẻ tuổi cần mạnh dạn "thoát ra khỏi vùng an toàn của mình". Vùng an toàn là giới hạn mà mỗi người tự đặt ra, nơi họ sống thoải mái, bình yên mà không có bất kỳ sự thay đổi hay đột phá nào. Đây là môi trường quen thuộc, không có những áp lực nặng nề hay mạo hiểm, nơi con người có thể kiểm soát mọi vấn đề xảy ra.Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng phần lớn những người sống trong vùng an toàn của mình mà không dám thoát ra là thế hệ trẻ. Đây là một vấn đề rất đáng lo ngại. Tuổi trẻ là khoảng thời gian tươi đẹp nhất, chúng ta có năng lượng, có thời gian, và hơn hết chúng ta có thừa khả năng học hỏi những điều mới mẻ. Vậy tại sao lại chôn vùi khả năng đó trong chiếc vỏ bọc vô hình của bản thân?Con đường đời của mỗi người chưa bao giờ là bằng phẳng, vì vậy chúng ta cần chấp nhận thực tế và mở rộng vùng an toàn của mình. Khi thoát ra khỏi vùng an toàn, chúng ta sẽ tích lũy được nguồn kiến thức phong phú, những bài học kinh nghiệm đầy giá trị làm nền tảng cho sự bứt phá trong những lĩnh vực mới, những hướng đi mới. Bước ra khỏi ranh giới của bản thân nghĩa là ta đã hoàn toàn sống độc lập, có khả năng xử lý và giải quyết những tình huống khó khăn, những sóng gió bất ngờ ập đến trên con đường đến đỉnh vinh quang.
Khi phá vỡ bức tường an toàn, chắc chắn sẽ có những lúc chúng ta cảm thấy yếu lòng, mệt mỏi hay choáng ngợp vì những thay đổi lớn, nhưng đó sẽ là cơ sở để chúng ta rèn luyện tính nhẫn nại, kiên trì bền bỉ, không vì chút khó khăn mà nản lòng hay từ bỏ giữa chừng.Tuy nhiên ta vẫn thường bắt gặp nhiều thanh niên trẻ vì ngại bị từ chối mà không dám nộp hồ sơ vào các công ty lớn hay sống một cuộc sống lặp đi lặp lại theo quy củ, không có gì đột phá, không có gì thay đổi. Đó là những người suốt cuộc đời chỉ có thể dậm chân tại chỗ, chấp nhận cuộc sống tẻ nhạt và thậm chí là không thể thành công.
Cuộc sống muôn hình vạn trạng, không ai biết trước được điều gì sẽ xảy ra. Vì vậy, tuổi trẻ chúng ta hãy tập cho mình lối sống hòa nhập với những điều mới, hãy bước khỏi vùng an toàn của bản thân để trở thành những người bản lĩnh, kiên cường, tràn đầy kinh nghiệm và lòng nhiệt huyết. Chỉ khi dám đối mặt và vượt qua những thử thách, chúng ta mới có thể phát triển toàn diện và đạt được những thành công đáng kể trong cuộc sống.
Câu 1:
Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong bài là tự sự
Câu 2:
Nhân vật trung tâm của đoạn trích là Bê-li-cốp
Câu 3:
Đoạn trích được kể đồng thời cả ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba
Lời kể của Pu-rơ-kin , nhân vật trong câu chuyện đồng thời là người kể chuyện ở ngôi thứ nhất. Tác giả giữ ngôi thứ ba kể lại câu chuyện của Pu-rơ-kin .
Tác dụng của ngôi kể làm tăng tính khác quan, chân thật cho câu chuyện
Câu 4:
Những chi tiết miêu tả chân dung nhân vật Bê-li-cốp là "lúc nào cũng đi giày cao su, mang ô bà nhất thiết là mặc áo bành tô ấm cốt bông" ,"bộ mặt dường như cũng ở trong bao"
Nhan đề đoạn trích được đặt là "Người trong bao" vì đó là một nhan đề giàu hình ảnh vừa gây ấn tượng sâu sắc nhất ,lạ nhất. Nhan đề nhằm chỉ một kiểu người ,một hiện tượng xã hội phổ biến tồn tại trong bộ phận trí thức đương thời. Biểu tượng cho một lối sống khép kín lối sống thụ động và nhiều nỗi sợ.
Câu 5:
Bài học em rút ra được từ đoạn trích là hãy thay đổi cuộc sống ,sống một cách tự tin ,chủ động,dám đối diện vơi thực tại ,mạnh mẽ và lắng nghe ý kiến của người khác , bỏ thói ích kỷ vì khi làm được điều đó sẽ khiến cho cuộc sống thay đổi ngày càng tích cực ,đem lại nhiều giá trị tốt đẹp.
Câu 1:
Trong "Chiếu cầu hiền tài", Nguyễn Trãi đã thể hiện một nghệ thuật lập luận bậc thầy, kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý lẽ sắc bén và tình cảm chân thành, lay động lòng người. Mở đầu, ông khẳng định vai trò tối thượng của hiền tài, ví họ như "nguyên khí quốc gia", những người nắm giữ vận mệnh hưng vong của đất nước. Tiếp theo, ông khéo léo chỉ ra thực trạng đáng buồn của xã hội sau chiến tranh, khi "nhân tài như lá mùa thu", khiến triều đình thiếu vắng những người tài đức.Nguyễn Trãi sử dụng linh hoạt các câu hỏi tu từ, không chỉ để gợi mở vấn đề mà còn để thể hiện sự trăn trở, lo lắng sâu sắc của nhà vua trước vận mệnh đất nước. Ông cũng vận dụng tài tình các hình ảnh so sánh, ẩn dụ sinh động, giàu sức biểu cảm như "sao sáng trên trời", "ngọc trong đá" để ca ngợi vẻ đẹp và giá trị của người hiền tài, đồng thời thể hiện sự trân trọng và ngưỡng mộ của triều đình đối với họ.Đặc biệt, Nguyễn Trãi không ngần ngại thừa nhận những thiếu sót của triều đình trong việc đãi ngộ hiền tài, thể hiện sự chân thành, cầu thị và quyết tâm sửa đổi. Ông đưa ra lời kêu gọi tha thiết, khẳng định quyết tâm trọng dụng hiền tài của nhà vua, đồng thời khơi dậy lòng yêu nước, ý thức trách nhiệm của những người có tài năng đối với đất nước.Nghệ thuật lập luận của Nguyễn Trãi trong "Chiếu cầu hiền tài" không chỉ thể hiện tài năng văn chương xuất chúng của ông mà còn cho thấy tầm nhìn chiến lược và tấm lòng yêu nước sâu sắc của một nhà chính trị, nhà văn hóa vĩ đại.
Câu 2 :
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng thể hiện sự nhận thức sâu sắc về vai trò của thế hệ trẻ trong quá trình xây dựng đất nước bằng câu nói:"Sự tươi đẹp của non sông Việt Nam khả năng cạnh tranh của các cường quốc trên thế giới và cả sự phát triển của đất nước chúng ta đều dựa vào phần lớn vào việc học tập và phấn đấu của các bạn trẻ". Thế hệ trẻ được xem là trụ cột quan trọng để đưa Việt Nam vươn lên trở thành một đất nước mạnh mẽ phồn thịnh trên quốc tế.
Tuy nhiên, ngày nay, chúng ta đang đối mặt với một thực tế đáng buồn đó là sự"chảy máu chất xám". Đơn giản đây là hiện tượng khi một số lượng lớn các nhân tài trẻ và trí thức của Việt Nam định cư ,làm việc tại nước ngoài thay vì quay về đóng góp cho quê hương."chất xám" ở đây đại diện cho trí tuệ, sự sáng tạo và năng lực của con người. Rất nhiều bạn trẻ với những tài năng xuất sắc của Việt Nam sau khi học tập ở nước ngoài quyết định ở lại đóng góp tài năng để tạo ra giá trị vật chất cho cộng đồng ,nơi họ đang sinh sống thay vì trở về quê hương. Tình trạng này dẫn đến sự" thất thoát" những nguồn nhân lực xuất sắc và ảnh hưởng đến quá trình xây dựng và phát triển đất nước.
Nguyên nhân của tình trạng" chảy máu chất xám" có thể được phân tích từ hai góc độ. Thứ nhất từ góc độ cá nhân, nhiều người trẻ thích hưởng lợi,và tới môi trường làm việc tốt hơn và thu nhập cao hơn ở nước ngoài. Từ góc độ cơ cấu xã hội, Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với sự phát triển chậm hơn các quốc gia tiên tiến ,thiếu điều kiện và chế độ đãi ngộ ,không thực sự thúc đẩy sự phát triển của tài năng trong nước. Chúng ta không thể trách họ bởi tất cả đều muốn làm việc trong một môi trường tốt hơn, nơi có cơ hội phát triển tài năng và đam mê của mình, cũng như có những thu nhập mong muốn. Để giải quyết vấn đề này chúng ta cần phải thực hiện các biện pháp nhằm thu hút và giữ chân tài năng ,tạo điều kiện làm việc hấp dẫn cho họ. Cũng như mỗi cá nhân phải có nhận thức đúng đắn và mong muốn cống hiến cho đất nước, đặt lợi ích chung lên những lợi ích của cá nhân. Đặc biệt nhà nước cần thực hiện các biện pháp đặc biệt thu hút họ trở về quê hương ,đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng tiêu chuẩn và trả lương công bằng cho họ.
Những hành động nhỏ của mỗi cá nhân sẽ tạo giá trị lớn .Hãy sống và cống hiến để đất nước của chúng ta ngày càng giàu đẹp văn minh hơn. Có như vậy nước ta mới có thể phát triển mạnh mẽ trở thành cường quốc như mong muốn của chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
Câu 1:
Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong bài là nghị luận
Câu 2:
Chủ thể bài viết là vua Lê Thái Tổ
Câu 3:
Mục đích của bài chiếu là ban bố mệnh lệnh ,muốn được nhiều người tài đức về giúp việc triều chính nên bài chiếu hướng tới đối tượng rộng rãi, bao gồm các quan trong triều và toàn thể nhân dân.
Những đường lối tiến cử người hiền tài được đề cập trong văn bản:
Người tiến cử được thưởng vào bậc thượng thưởng, theo như phép xưa
Nếu cử được người trung tài thì thăng chức hai bực,nếu cử được người tài đức đều hơn người tột bực ,tất được trọng thưởng.
Câu 4 :
Theo văn bản khi có được nước rồi, việc đầu tiên vua cần làm là chọn người hiền tài về giúp cho đất nước. Để minh chứng cho luận điểm đó người viết đã đưa ra dẫn chứng là "Đến như các quan đời Hán đường, ai là không suy nhượng kẻ hiền tài,cất nhắc lẫn nhau như Tiêu Hà tiến Tào Tham ,Ngụy Vô Tri tiến Trần Bình, Địch Nhân Kiệt tiến Trương Cửu Linh,Tiêu Từng tiến Hàn Hưu,tùy tài phẩm có cao thấp khác nhau nhưng thảy đều được người để đảm đang nhiệm vụ.
Câu 5:
Qua đoạn trích trên, ta thấy được tầm nhìn rộng lớn của vua Lê Lợi cùng cách xử trí tìm người hiền tài, anh minh, chính trực, cho thấy được cách nhìn nhận việc nước, nhân cách xứng đáng là vị vua, người trị vì đứng đầu đất nước.
Câu 1:
Trong bối cảnh xã hội hiện đại .Nơi mà diễn ra sự thay đổi ngày càng nhanh chóng, lối sống chủ động trở thành một yếu tố quyết định đến cuộc sống của mỗi cá nhân .Lối sống chủ động không chỉ đơn giản là việc hành động trước mà còn là một thái độ tích cực, dám đương đầu với thử thách và không ngừng vươn lên. Người có lối sống chủ động là người biết rõ mục tiêu của mình, họ chủ động đặt ra kế hoạch và từng bước thực hiện nó, họ không chờ đợi cơ hội đến mà chủ động tạo ra cơ hội cho chính mình, họ không đổ lỗi cho hoàn cảnh ,luôn tìm cách vượt qua khó khăn, biến thách thức thành cơ hội để phát triển bản thân, không ngại học hỏi, trau dồi kiến thức và kỹ năng. Lối sống chủ động không chỉ mang lại lợi ích cho cá nhân mà còn góp phần xây dựng một xã hội tích cực và phát triển. Khi mỗi người đều chủ động sẽ tạo ra một môi trường sống và làm việc tích cực, khuyến khích đổi mới và sáng tạo.Nếu bạn dám hành động, suy nghĩ, chủ động và kiên quyết thì mọi việc đều dẫn đến thành công .Xã hội ngày càng đi lên, bạn cần phải chủ động để không bị tụt lùi. Ngay từ hôm nay nên luyện tập cách sống chủ động cho mình và lên kế hoạch cho ước mơ của chính bản thân ,đó là con đường duy nhất để sống với chính mình, tạo ra được cuộc sống thú vị và có ý nghĩa .Hành trình cuộc đời của con người chính là khám phá ra năng lực của bản thân, ở thế chủ động thành công luôn đến với bạn. Thế nhưng vẫn còn có những người thiếu tự tin ,ở thế bị động ,phó mặc cuộc sống .Vì thế mỗi chúng ta hãy biết làm chủ cuộc sống của mình ,hãy bình tĩnh ,tự tin, quyết đoán để luôn là người chủ động trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.
Câu 2:
Nguyễn Trãi là một nhân vật toàn tài hiếm có của lịch sử trung đại Việt Nam. Ông là nhà quân sự , nhà văn hóa lớn với tấm lòng yêu nước thương dân trong bất cứ hoàn cảnh nào. Ông cũng là người là đặt nền móng và mở đường cho sự phát triển của thơ ca nước ta. Nhắc đến Nguyễn Trãi, người ta không thể không nhắc tới một tập thơ được xem là tác phẩm mở đầu cho văn học chữ Nôm "Quốc âm thi tập" . Trong đó "Cảnh ngày hè" là một bài thơ tiêu biểu. bài thơ là nỗi niềm và cảm xúc của Nguyễn Trãi trước bức tranh ngày hè.
Cảnh ngày hè là bài thơ thứ 43 trong 61 bài trong chùm thơ "Bảo kính cảnh giới " là một bài thơ hay của "Quốc âm thi tập". Bài thơ tả cảnh ngày hè, cho thấy tâm hồn Nguyễn Trãi chan chứa tình yêu thiên nhiên ,yêu đời ,yêu nhân dân ,yêu đất nước. Sáu câu thơ đầu tiên là cảm xúc của nhà thơ trước bức tranh cảnh ngày hè. Mở đầu bài thơ là câu thơ sáu chữ :"Rồi hóng mát thuở ngày trường" .Chữ "rồi" là điểm nhấn đặt ở đầu câu, gợi trạng thái con người nhàn nhã, không vướng bận điều gì. "Ngày trường" có nghĩa là ngày hè dài. Câu thơ mở ra tâm thế nhàn hạ, ung dung của Nguyễn Trãi trước cảnh ngày hè. Đó cũng là tư thế ung dung, nhàn hạ của con người trong văn học trung đại. Bức tranh ngày hè hiện lên qua hình ảnh ba loại cây đặc trưng của mùa hè. Mỗi loài cây đều được miêu tả bằng những tính từ chỉ màu sắc và những động từ mạnh:
"Hòe lục đùn đùn tán rợp trương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tịn mùi hương."
Cây hòe với màu xanh lục như cuộn lên từng khối biếc, từng chùm cứ như sinh sôi ngay trước mắt, cành lá xanh tươi tỏa rộng. Hoa lựu rừng rực sắc đỏ đồng loạt phun trào. Động từ "phun" diễn tả sức sống như bật ra, trào ra. Màu đỏ của hoa lựu như một nét rực rỡ trên nền xanh của lá. Điểm nhìn của nhà thơ từ tầng không tới hiên nhà tới tầng thấp là hoa sen để nhận ra sen hồng đã ngát mùi hương. "Tiễn" là ngát, là nức. Hương thơm tỏa ra khắp không gian, sức sống chất chứa từ bên trong đang phun trào. Thiên nhiên ở đây không tĩnh mà động, tưởng như sức sống bên trong đang trào ra: màu xanh của hòe, màu đỏ của lựu, màu hồng của sen đã được thôi thúc từ bên trong không kìm lại được mà tuôn trào hết lớp này đến lớp khác. Tất cả như hô ứng, đua nhau khoe sắc tỏa hương hợp thành vẻ toàn thực của mùa hè.Bức tranh ngày hè rực rỡ sắc màu giờ đây còn rộn rã âm thanh. Đó là tiếng lao xao chợ cá làng chài vọng đến gợi sự đông đúc, nhộn nhịp với cuộc sống ấm no của con người: "Lao xao chợ cá làng ngư phủ". Nó có thể là một phiên chợ có thật nhưng rất có thể đó là những âm thanh vọng lên trong tâm tưởng nhà thơ khi hướng về cuộc sống. Đó là âm thanh cuộc sống nơi dân dã, nơi làng quê. Cái "lao xao" gọi sự ồn ào, náo nhiệt, gợi vẻ sầm uất của cuộc sống xung quanh, là những xôn xao vang lên giữa nhịp sống hài hòa trường cửu của vũ trụ,...Vẫn bằng một cái nghiêng tai rất sầu, nhà thơ đón bắt được một âm thanh rất quen dắng dỏi trong chiều tà: "Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương". Nắng tắt, chiều tàn, màn đêm đang buông xuống, cho dù là chốn lầu tịch dương thì cũng khó lòng tránh khỏi cảm giác quạnh hiu, cô độc. Dường như ấn tượng ảm đạm của triều tà hoàn toàn xua tan khi nhạc ve dắng dỏi, là âm thanh mạnh mẽ, dứt khoát l, trầm bổng ngân vang trong cảm nhận của tác giả. Âm thanh ấy trong cảm nhận của tác giả như tiếng đàn. Phải có một tâm hồn nhạy cảm, háo hức hướng về cuộc sống, Nguyễn Trãi mới có thể nghe được âm thanh như thế. Thời gian và cảnh vật đang ở cuối ngày nhưng sự sống dường như vẫn không dừng lại. Thêm một lần ta hiểu hơn niềm tha thiết hướng về cuộc sống của tác giả, hiểu hơn về tâm hồn luôn hướng về cuộc đời với nhiều ước vọng của Nguyễn Trãi.Và trong khoảnh khắc đẹp đẽ ấy, tiếng Ngu cầm trong tưởng tượng được cất lên:
"Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương"
Hai câu thơ kết sử dụng điển "Ngu cầm" kể câu chuyện về cây đàn của vua Ngu Thuấn ca ngợi nền thái bình với niềm vui sống tự hào. Hai từ "lẽ có" - lẽ ra nên có, nổi lên trong câu thơ khi sử dụng điển tích "Ngu cầm" là mong ước có được cây đàn vua Nghiêu, vua Thuấn. Đó là ước mong được hòa điệu, được san sẻ niềm vui sống trong cảnh thái bình nhân dân. Cao hơn là một niềm mong mỏi về một cuộc sống an lạc cho người dân khắp mọi phương trời được duy trì vĩnh viễn như thời vua Nghiêu, vua Thuấn. Có phải vì thế khi nghe kỹ tình thơ, ý thơ, ta nhận ra trong hai chữ "dễ có" một chút gì ưu tư, luyến tiếc và cả một chút ngậm ngùi. Những cảm xúc từ từ trở thành nét bất biến trong vẻ đẹp nhân cách lớn lao của Nguyễn Trãi được hậu thế muôn đời tôn quý, mới thấy cội nguồn vui sống của Nguyễn Trãi vẫn là cảnh quốc thái dân an. Chừng nào nhân dân chưa được thái bình thì ngày hè dẫu tưng bừng đến mấy thì niềm vui cũng không được trọn vẹn. Ước vọng ấy nâng tầm Nguyễn Trãi ngang tầm tư tưởng của một đấng quân vương. Cả bài thơ có tám câu, đến tận câu cuối chữ "dân" mới xuất hiện nhưng thực sự nó là cái nền chính, linh hồn bài thơ, thực sự là chìa khóa giải mã cho cái bất thường, cho cái dằng dặc của ngày hè.
Cả bài thơ tạo thành một liên tưởng thơ độc đáo với kết cấu đầu cuối tương ứng. Bài thơ có sự sáng tạo hình thức thơ thất ngôn xen lục ngôn tạo sự phá cách trong nhịp điệu, ngôn từ biểu cảm giàu sức gợi tài tình. Tất cả tạo nên một nhân cách nhà thơ ưu ái với dân, với nước. Nguyễn Trãi yêu thiên nhiên nhưng trên hết vẫn là tấm lòng của ông tha thiết với con người, với dân, với nước. Ước mơ đó, tấm lòng đó thể hiện tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi. Với ngày hôm nay nó vẫn mang ý nghĩa thẩm mỹ và nhân văn sâu sắc.Bài thơ đẹp như một bức tranh thi trung hữu họa. Bài thơ giúp ta hiểu hơn về tâm hồn, nhân cách của Nguyễn Trãi, bồi đắp cho chúng ta niềm yêu nước, thương dân trong trái tim.
Câu 1: Thể thơ của văn bản trên là thất ngôn bát cú Đường luật .
Câu 2 : Những hình ảnh nói về nét sinh hoạt hằng ngày đạm bạc , thanh cao của tác giả là '' thu ăn măng trúc'' , '' đông ăn giá '' , '' xuân tắm hồ sen '' , '' hạ tắm ao ''.
Câu 3 : Biện pháp tu từ liệt kê là một mai , một cuốc , một cần câu.
Tác dụng của biện pháp tu từ liệt kê là nhấn mạnh sự lựa chọn lối sống giản dị ,an nhàn , thể hiện thái độ mỉa mai lối sống danh vọng , tạo sự nhịp nhàng , hài hòa cho câu thơ.
Câu 4: Quan niệm dại -khôn của tác giả trong hai câu thơ thể hiện sự đối lập giữ cuộc sống thanh tịnh , tự tại với cuộc sống ồn ào , tranh giành .Tác giả cho rằng người khôn ngoan là người tìm đến chốn lao xao , danh lợi , còn người dại là người tìm đến sự yên tĩnh , tự tại . Đây là quan niệm đặc biệt vì nó đi ngược lại với bình thường ,thực tế đây là sự lựa chọn lối sống , sự khôn ngoan khác biệt của tác giả .
Câu 5 :
Vẻ đẹp nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong bài thơ toát lên từ lối sống giản dị , thanh cao , không màng danh lợi . Ông tìm đến sự tĩnh lặng , hòa mình với thiên nhiên , thể hiện sự khôn ngoan khác biệt , không chạy theo thứ phù phiếm . Qua đó thấy tác giả với tâm hồn thanh thản, một khí phách , nhân cách đáng ngưỡng mộ . Ông là hình ảnh tiêu biểu của người trí thức yêu nước , sống giản dị mà thanh cao , sống đúng với quan niệm của mình , không bị cám dỗ bởi hào nhoáng của cuộc sống.