Ngô Thị Thanh Thư

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Ngô Thị Thanh Thư
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

câu 1 :
Văn bản thông tin 
câu 2 :
Đô thị cổ Hội An
câu 3:

câu 1 :
Văn bản thông tin 
câu 2 :
Đô thị cổ Hội An
câu 3:

câu 1:
Mỗi một dân tộc trên thế giới đều có một quá trình lịch sử của riêng mình. Đó là quá trình xây dựng và hình thành các truyền thống văn hoá tốt đẹp, tạo dựng sức mạnh xây dựng và bảo vệ đất nước. Trong lịch sử phát triển, các di sản văn hoá là những giá trị quý báu mà mỗi con người phải ra sức giữ gìn và bảo vệ. Dân tộc Việt Nam ta cũng có rất nhiều di sản văn hoá mà chúng ta trân trọng.Vậy di sản văn hoá là gì? Đó là những tài sản vật chất và tài sản tinh thần chứa đựng nét đẹp mà cha ông nhiều thế hệ đã dày công xây dựng và vun đắp lên. Đó có thể là một làn điệu dân ca hình thành từ lâu đời, hay là một công trình kiến trúc mang dấu ấn của quá khứ... Những di sản văn hoá có mặt ở khắp nơi, muốn giữ gìn và bảo vệ thì cần sự quan tâm của tất cả mọi người.Chúng ta cần phải ra sức gìn giữ và bảo vệ các di sản văn hoá của đất nước, của dân tộc, bởi đây là biểu hiện rõ nhất của lòng yêu nước. Ai yêu quê hương mình mà chẳng yêu những nét đẹp truyền thống, yêu câu hát dân ca, lễ hội của làng quê hay một ngôi chùa, một đình làng xưa cũ, nơi mang trong mình những hơi thở của đời sống bao thế hệ cha ông. Từ đó, ta cũng thấy rằng bảo vệ, giữ gìn di sản văn hoá còn là bảo vệ nền tảng tinh thần của dân tộc. Mà nền tảng tinh thần là linh hồn của dân tộc, là bản sắc văn hoá. Nếu mất đi bản sắc đó tức là mất đi gốc rễ truyền thống, biết lấy gì để vun đắp cho tâm hồn, làm chỗ dựa trước những trào lưu phức tạp trong một thời đại toàn cầu hoá, đòi hỏi con người phải biết giữ bản sắc dân tộc không phai nhòa. Ngoài ra, di sản văn hóa của dân tộc đều có giá trị vô cùng to lớn. Làm tổn thất về di sản văn hóa chính là làm nghèo đất nước, đúng về cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Bởi di sản văn hóa giúp cho đất nước có thêm nguồn thu từ du lịch, di sản văn hóa cũng tạo nên sự hấp dẫn cho mọi vùng đất. Di sản văn hóa còn là sự kết nối các thế hệ con người Việt Nam. Sự kết nối giữa quá khứ và hiện tại, và tương lai là điều quan trọng để đất nước luôn phát triển bền vững.Trong thời gian vừa quan, việc giữ gìn các di sản văn hóa rất được nhà nước ta quan tâm, nó thể hiện ở các chính sách bảo tồn và phát triển. Chúng ta có thể thấy các công trình kiến trúc xưa cổ được bảo vệ và tu sửa như chùa Một Cột, cụm di tích thành Nội Huế hay khu vườn của ba anh em Tây Sơn ở Bình Định... Những dấu tích vẻ vang của quá khứ còn in dấu trên từng viên gạch, từng cái cây cổ thụ. Mỗi một người Việt Nam đều ý thức rất rõ về tầm quan trọng của việc bảo vệ các di sản văn hóa dân tộc. Bảo vệ nét đẹp văn hóa chính là bảo vệ một phần tâm hồn của mình. Nhưng có một số ít các bạn trẻ còn chưa hiểu rõ giá trị của di sản văn hóa. Hành động vẽ lên di tích hay làm tổn thương các di sản văn hóa vẫn còn đâu đó. Chúng ta cần lên án và chỉ rõ ra những sai trái đó, để di sản văn hóa dân tộc mãi tồn tại theo thời gian.Tuổi trẻ hôm nay cần nhận thức sâu sắc về việc giữ gìn và bảo vệ các di sản văn hóa. Mà trước tiên, chúng ta cần học tập để hiểu được các giá trị văn hóa dân tộc. cách thức bảo tồn những giá trị đó. Ngoài ra, cần tuyên truyền sâu rộng, kiên trì thực hiện những việc làm cụ thể, hữu ích để di sản văn hóa mãi vẹn nguyên giá trị.Di sản văn hóa được hình thành không phải một sớm một chiều, mà trải qua một quãng thời gian lâu dài, khiến cho giá trị trở nên vô cùng to lớn, chứa đựng biết bao vẻ đẹp của tâm hồn dân tộc. Bảo vệ, giữ gìn di sản văn hóa dân tộc chính là bảo vệ bản sắc, tâm hồn dân tộc mà ngàn đời trước, cha ông ta đã dựng xây và bồi đắp thành.

câu 2:
Đã từ lâu, tình bạn đã được đề cập đến trong các tác phẩm văn học. Nguyễn Khuyến là nhà văn sở hữu số lượng lớn các bài thơ mang chủ đề rất quen thuộc trong đời sống hàng ngày như thế. Nếu như trong Bạn đến chơi nhà, ông dùng giọng văn hóm hỉnh, khôi hài để nói về tình bạn không màng vật chất, thì sang bài thơ Khóc Dương Khuê, giọng thơ đã thay đổi hẳn. Cả bài thơ như tiếng khóc nấc lên trong sự buồn bã của Nguyến Khuyến khi đến đám tang của người bạn Dương Khuê. Đặc biệt trong 16 câu thơ cuối:

“Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,

Tôi lại đau trước bác mấy ngày.

Tuổi già hạt lệ như sương,

Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan!”

Nỗi xót thương cho người bạn quá cố càng được thể hiện đậm nét.

Nguyễn Khuyến xuất thân là nhà nho, có tài văn chương, đỗ đầu cả ba kỳ thi nên còn được gọi là Tam Nguyên Yên Đổ. Ông thường viết về gia đình, bạn bè, quê hương và châm biếm bọn thực dân. Bài thơ Khóc Dương Khuê ban đầu được viết bằng chữ Hán, sau được Nguyễn Khuyến dịch lại bằng chữ Nôm. Dương Khuê là bạn của Nguyễn Khuyến, mặc dù kém tuổi nhưng Dương Khuê cũng đỗ chức tước cao, trở thành tri âm của Nguyễn Khuyến. Mười sáu câu thơ cuối là nỗi đau đáu, thương xót của Nguyễn Khuyến trước sự ra đi đột ngột của bạn.

Hai câu thơ mở đầu được nhà thơ viết bằng giọng văn khôi hài, nhưng chua xót, bộc lộ sự đau lòng của ông:

“Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,

Tôi lại đau trước bác mấy ngày.”

Quả thật, Nguyễn Khuyến hơn Dương Khuê bốn tuổi, nhưng Nguyễn Khuyến vẫn gọi Dương Khuê bằng giọng thân mật “tôi - bác”. Câu thơ “đau trước bác mấy ngày” sử dụng biện pháp ẩn dụ, ý chỉ sự ra đi của Dương Khuê quá đột ngột, khiến tác giả không thôi giật mình và đau đớn.

Trong bốn câu thơ tiếp theo, nhà thơ tiếp tục mạch cảm xúc trầm lắng, đau thắt lòng:

“Làm sao bác vội về ngay,

Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời.

Ai chẳng biết chán đời là phải,

Sao vội vàng mà mải lên tiên.”

Tác giả sử dụng biện pháp nói giảm, nói tránh và biện pháp nói quá rất khéo léo,, ý nhị. Để chỉ sự ra đi của người bạn thân, ông dùng những từ “vội về ngay”, “chán đời”, “vội vàng”, “lên tiên”, với mục đích để giảm đi sự đau thương, nhưng sao câu thơ vẫn đau bội phần như vậy. Nói tránh đi sự ra đi của bạn, Nguyễn Khuyến phóng đại nỗi đau của mình “chân tay rụng rời”. Chắc hẳn, vì quá bất ngờ, ông đã không kìm được cảm xúc mà suy sụp, đau như “chân tay rụng rời”.

Trước kia, tất cả những thú vui trên cõi đời đều có ông và Dương Khuê hưởng thụ. Nhưng nay, những niềm vui đó bỗng trở nên chán chường, vô nghĩa bởi đã mất bạn rồi:

“Rượu ngon không có bạn hiền,

Không mua không phải không tiền không mua.

Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,

Viết đưa ai, ai biết mà đưa;

Giường kia treo cũng hững hờ,

Đàn kia gãy củng ngẩn ngơ tiếng đàn.”

Rượu luôn là thức uống yêu thích của thi nhân, thế nên mới có thi tửu. Nhưng rượu chỉ ngon khi được uống cùng bạn hiền. Biện pháp điệp từ “không” ba lần liên tiếp trong một câu thơ như nhân lên ba lần sự vô vị, không ham muốn thi tửu của Nguyễn Khuyến khi không có bạn. Hôm nay không mua rượu, không phải do không có tiền, mà là do không còn tri âm.

Bài thơ vẫn còn dang dở, chưa viết xong, bởi với ông, mất bạn rồi thì còn ai để đọc. Một lần nữa, biện pháp điệp ngữ lại xuất hiện, điệp từ “ai” và”đưa” hai lần, kết hợp với biện pháp chơi chữ “viết đưa ai” - “ai biết mà đưa”. Đây như một vòng luẩn quẩn, viết xong cũng không biết đưa cho ai, mà cũng không có ai để đưa. Mất đi Dương Khuê, Nguyễn Khuyến gần như mất đi cả một người đọc tri kỉ của mình.

Các sự vật tạo niềm vui khác như giường, đàn cũng mất đi sự sống, trở nên “hững hờ” và “ngẩn ngơ”. Đây là hai từ láy rất đặc sắc trong đoạn thơ, đồng thời là hai từ ngữ nhân hóa, khiến các sự vật tưởng như vô cảm ấy cũng đang hòa dần với nỗi đau mất mát bạn của nhà thơ. Sau cùng, thú vui để thưởng ngoạn với bạn, mất bạn rồi, thú vui cùng dần trở thành nỗi buồn sâu lắng.

Đau đớn là vậy, xót thương là vậy, nhưng Nguyễn Khuyến cũng đành chấp nhận sự thật rằng bạn đã đi xa:

“Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở,

Tôi tuy thương, lấy nhớ làm thương.

Tuổi già hạt lệ như sương,

Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan!”

Nguyễn Khuyến trách móc, hờn dỗi bạn khi “Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở”. Đây là một điều vô lý nhưng hết sức hợp lý. Vô lý bởi Dương Khuê mất do tuổi già, nên cho dù nhà thơ có trách móc, van nài thì Dương Khuê cũng đâu thể nghe thấy được. Nhưng hợp lý là bởi, Nguyễn Khuyến quá nhớ thương Dương Khuê, mong muốn bạn ở lại với mình, nên mới buông lời mà trách nhẹ nhàng thế.

Mãi đến tận cuối bài thơ, ta mới thấy xuất hiện giọt nước mắt của nhà thơ. Nhưng sao giọt nước mắt ấy lại “như sương”, mà còn phải ‘ép” mới ra? Đọc đến đây, ta chợt nhớ lại giọt nước mắt cũng phải “ép” mới ra của Lão Hạc trong tác phẩm của Nam Cao. Một phần cũng là do tuổi cao nên khó chảy nước mắt. Nhưng phần nhiều, do lão quá đau khổ vì mất cậu Vàng, nên không thể khóc thành dòng được nữa. Cũng như vậy, Nguyễn Khuyến cũng nói một phần do “tuổi già”, nhưng thật ra, sâu trong thâm tâm, ông đau lòng đến độ thật khó để có “hai hàng chứa chan”. Nước mắt chảy ngược vào trong, như thể ông đang “nuốt” cái thương bạn vào trong bụng.

Bằng những câu thơ sử dụng ngôn ngữ bình dân mộc mạc, gần gũi, từng câu thơ chất chứa cảm xúc mãnh liệt, sử dụng tài tình biện pháp nhân hóa, phép điệp ngữ, biện pháp so sánh, Nguyễn Khuyến đã bộc lộ lòng thương bạn, đau đớn muôn phần khi mất bạn, nhưng đồng thời cũng thể hiện thái độ chấp nhận sự thật. Đọc bài thơ, ta càng thêm trân trọng hơn những tình bạn đẹp đẽ, trong sáng giữa đời thường.

câu 1:

Chat GPT đã và đang trở thành một công cụ hỗ trợ mạnh mẽ trong nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích, việc lạm dụng Chat GPT đang gây ra những hậu quả tiêu cực, đặc biệt là trong học tập và công việc.

Trước hết, không thể phủ nhận Chat GPT mang lại nhiều tiện ích như tìm kiếm thông tin, hỗ trợ học tập, giúp sáng tạo nội dung và tối ưu hóa công việc. Công nghệ này giúp con người tiết kiệm thời gian và nâng cao hiệu suất lao động. Tuy nhiên, vấn đề xuất hiện khi nhiều người quá phụ thuộc vào Chat GPT, sử dụng nó như một giải pháp thay thế hoàn toàn cho tư duy cá nhân.

Một trong những hậu quả dễ thấy nhất là tình trạng học sinh, sinh viên sao chép bài làm từ AI mà không tự suy nghĩ, làm mất đi tinh thần tự học. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến khả năng tư duy mà còn làm giảm sự sáng tạo của thế hệ trẻ. Không dừng lại ở đó, trong công việc, việc sử dụng Chat GPT một cách máy móc có thể làm giảm giá trị của lao động trí óc, khi con người chỉ biết sử dụng AI mà không có đóng góp thực sự.

Ngoài ra, Chat GPT không phải lúc nào cũng đưa ra thông tin chính xác. Nếu không có sự kiểm chứng, người dùng có thể dễ dàng tiếp nhận những nội dung sai lệch, gây tác động tiêu cực đến nhận thức và quyết định của họ.

Giải pháp để hạn chế lạm dụng Chat GPT là mỗi cá nhân cần sử dụng công nghệ này một cách có trách nhiệm. Chúng ta nên xem nó như một công cụ hỗ trợ, kết hợp với tư duy phản biện và tự học. Đồng thời, cần có những quy định chặt chẽ hơn về việc sử dụng AI trong giáo dục và công việc để ngăn chặn việc lạm dụng.

Tóm lại, Chat GPT là một công cụ hữu ích nhưng nếu lạm dụng, nó có thể trở thành con dao hai lưỡi. Vì vậy, con người cần biết cách sử dụng nó một cách thông minh và hợp lý để không đánh mất giá trị của bản thân.
câu 2:
Trong trường kỳ kháng chiến bảo vệ đất nước và dân tộc, dường như có rất nhiều sự hy sinh đã đổ xuống. Có những sự hy sinh về thể xác và máu thịt nhưng cũng có nhưng hy sinh về mặt cảm xúc, tinh thần mà chẳng bút mực nào có thể tả xiết thành lời. Và bài thơ "Mẹ" của Bằng Việt là một khúc ca đầy xúc động về tình mẫu tử thiêng liêng, sâu sắc trong giai đoạn trường kỳ chiến đấu đó. Đoạn trích trên thể hiện nỗi nhớ thương da diết của người con khi hồi tưởng về hình ảnh người mẹ tảo tần, giàu đức hy sinh trong những năm tháng gian khổ của cả dân tộc. 

Ngay từ những câu thơ đầu tiên, bối cảnh bài thơ được mở ra trong không gian mưa dầm, gợi lên một nỗi buồn man mác:

"Con bị thương, nằm lại một mùa mưa

Nhớ dáng mẹ ân cần mà lặng lẽ

Nhà yên ắng, tiếng chân đi rất nhẹ,

Gió từng hồi trên mái lá ùa qua."

Người con đi chiến đấu nơi xa, bị thương phải nằm lại, và chính trong khoảnh khắc ấy, nỗi nhớ mẹ trào dâng mãnh liệt. Mưa rơi dầm dề càng làm cho không gian thêm vắng lặng, đơn côi. Trong nỗi nhớ, hình bóng mẹ dần hiện lên qua từng dáng điệu ân cần nhưng lặng lẽ. Căn nhà yên ắng, bước chân mẹ "đi rất nhẹ" như sợ làm con thức giấc, như sợ khuấy động giấc ngủ của đứa con thân yêu. Câu thơ "Gió từng hồi trên mái lá ùa qua" không chỉ miêu tả âm thanh của gió mà còn gợi lên sự lạnh lẽo, cô đơn của người con khi nằm lại một mình. Tất cả đều gợi lên một sự yêu thương, một nỗi lo toan lặng thầm mà mẹ dành cho con.

Tiếp nối dòng hồi tưởng, khung cảnh ngôi nhà thân thương với những cảnh vật dần hiện ra trong ký ức:

"Nhớ vườn cây che bóng kín sau nhà

Trái chín rụng suốt mùa thu lộp độp

Những dãy bưởi sai, những hàng khế ngọt,

Nhãn đầu mùa, chim đến bói lao xao..."

Những hình ảnh quen thuộc của khu vườn như "bưởi sai", "khế ngọt", "nhãn đầu mùa" không chỉ đơn thuần là cảnh vật mà còn gợi lên không gian ấm áp của tuổi thơ, nơi từng in dấu những kỷ niệm ngọt ngào bên mẹ. Đặc biệt, tiếng "trái chín rụng lộp độp" không chỉ là âm thanh tự nhiên mà còn mang tính gợi tả, gợi lên sự tuần hoàn của thời gian, của những mùa trái chín, cũng như sự gắn bó bền chặt của người con với quê nhà.

Không chỉ nhớ đến không gian quê nhà, nỗi nhớ thương mẹ còn được khắc họa một cách bình dị và thân thương qua những món ăn quen thuộc:

"Con xót lòng, mẹ hái trái bưởi đào

Con nhạt miệng, có canh tôm nấu khế

Khoai nướng, ngô bung, ngọt lòng đến thế

Mỗi ban mai tỏa khói ấm trong nhà."

Những món ăn mẹ nấu không phải cao lương mỹ vị mà chỉ là những món dân dã như canh tôm nấu khế, khoai nướng, ngô bung, nhưng chính sự giản dị ấy lại càng làm nổi bật tấm lòng yêu thương của mẹ. Khi con "xót lòng", mẹ hái bưởi đào cho con, khi con "nhạt miệng", mẹ lại nấu canh tôm để bữa ăn thêm phần ngon miệng. Từng món ăn đều chứa đựng sự quan tâm, lo lắng của mẹ, khiến con cảm nhận được vị ngọt không chỉ từ thức ăn mà còn từ tình thương vô bờ của mẹ. Câu thơ "Mỗi ban mai tỏa khói ấm trong nhà" không chỉ gợi lên hình ảnh bữa cơm ấm áp mà còn mang ý nghĩa biểu tượng về tình cảm gia đình thiêng liêng, nơi mẹ là người giữ lửa, giữ gìn hạnh phúc gia đình.

Đoạn thơ cuối dâng trào cảm xúc khi nhấn mạnh tình cảm mẹ con trong bối cảnh chiến tranh:

"Ba con đầu đi chiến đấu nơi xa

Tình máu mủ mẹ dồn con hết cả,

Con nói mớ những núi rừng xa lạ

Tỉnh ra rồi, có mẹ, hóa thành quê!"

Chiến tranh đã lấy đi biết bao sự sum vầy của gia đình, cha và các anh đều ra trận, chỉ còn mẹ ở nhà với đứa con nhỏ bé. Câu thơ "Tình máu mủ mẹ dồn con hết cả" diễn tả sâu sắc sự bao bọc, chở che mà mẹ dành trọn cho đứa con út. Chính tình thương ấy đã trở thành nguồn sức mạnh, giúp con vượt qua những khó khăn, gian khổ của chiến tranh. Đặc biệt, câu thơ "Tỉnh ra rồi, có mẹ, hóa thành quê!" chính là điểm nhấn sâu sắc nhất của toàn bộ đoạn trích. Người con, sau những cơn mơ nói mớ về "núi rừng xa lạ", khi tỉnh dậy và nhìn thấy mẹ, bỗng chợt nhận ra rằng, mẹ chính là quê hương, là nơi để trở về, là nguồn yêu thương vững chắc nhất. Quê hương không chỉ là một địa danh, một vùng đất, mà quan trọng hơn, đó là nơi có tình thân, có mẹ che chở, bảo bọc. Câu thơ giản dị mà chứa đựng một triết lý sâu xa về tình mẫu tử và tình quê hương.

Như vậy, đoạn trích trong bài thơ "Mẹ" của Bằng Việt đã khắc họa thành công hình ảnh người mẹ Việt Nam tảo tần, giàu lòng yêu thương, hy sinh vì con. Qua những kỷ niệm và dòng hồi tưởng của người con, hình ảnh mẹ không chỉ là một người chăm sóc mà còn là biểu tượng thiêng liêng của sự hy sinh, che chở. Bài thơ đã chạm đến trái tim người đọc, khơi gợi tình cảm yêu thương và trân trọng đối với những người mẹ trong cuộc đời mỗi chúng ta. Qua đó, ta càng thêm thấm thía giá trị của tình mẫu tử, của mái ấm gia đình - nơi hậu phương vững chắc cho những người lính chiến đấu trên chiến trường để bảo vệ cả giải non sông.

Câu 1:
Tiếng Việt là tiếng nói, là ngôn ngữ của nước Việt Nam ta. Nó không chỉ là phương tiện để trao đổi đơn thuần, mà còn có vai trò then chốt trong việc gìn giữ và phát triển văn hóa dân tộc. Giống như Phạm Quỳnh đã từng nói “Tiếng ta còn, nước ta còn”.

Lịch sử nước ta đã trải qua cả nghìn năm đầy biến động, với không ít lần bị kẻ thù đô hộ, nhưng chưa bao giờ chúng ta quên đi tiếng nói của mình. Tiếng Việt là tiếng nói của người Việt, là biểu hiện của văn hóa dân tộc Việt không thể nào bị trộn lẫn, bị đồng hóa, bị cướp đoạt. Đó là niềm tự hào, là sợi dây gắn kết những đồng bào cùng chung dòng máu Tiên Rồng với nhau.

Trân quý đến như vậy, nhưng hiện nay lại có một bộ phận học sinh đã sử dụng tiếng Việt không còn thuần túy nữa. Các bạn ấy đã tự mình “sáng tạo” ra những cách dùng mới với lối nói và hàm nghĩa riêng, làm mất đi sự trong sáng của tiếng Việt. Những từ ngữ ấy là các cách viết tắt, viết bằng kí hiệu, hoặc tiếng lóng, tiếng đảo ngữ. Thậm chí là gán ghép các mặt nghĩa đen tối, thiếu đứng đắn cho một từ ngữ rồi dùng một cách phổ biến. Các từ ngữ ấy được sử dụng để các bạn học sinh trao đổi với nhau, trước hết là trên mạng xã hội dành cho giới trẻ. Lúc đầu, chúng giúp rút ngắn thời gian khi nói, viết. Đồng thời tạo cảm giác hài hước, thú vị cho câu thoại. Tuy nhiên, theo thời gian, mọi thứ dần bị biến chất. Các bạn ấy sử dụng các từ ngữ đó cả khi nói chuyện với người lớn, trong cuộc hội thoại ở nơi công cộng, rồi nhiều bạn còn “lậm” cả vào trong bài vở. Nếu chỉ sử dụng giữa những người bạn với nhau, thì còn có thể xếp các từ ngữ đó vào nhóm biệt ngữ. Nhưng khi nó đã được đưa ra để sử dụng ở nơi công cộng thì sẽ trở thành hành vi bất lịch sự. Đặc biệt là khi các bạn ấy còn truyền đạt cho cả người nước ngoài, thậm chí là quên mất việc sử dụng các từ ngữ “chính thống”. Điều đó khiến cho tiếng Việt - một ngôn ngữ chứa đầy lòng tự hào của dân tộc dần mất đi sự trong sáng của nó. Đây là một thực trạng hết sức đáng buồn. Bởi các bạn học sinh là tương lai của đất nước, mà chính tương lai ấy lại đang có những hành vi thiếu chuẩn mực.
câu 2:
Nguyễn Bính – là một nhà thơ lớn của thơ ca hiện đại Việt Nam.  Năm 1937, ông được giải thưởng Tự lực Văn đoàn với tập thơ Tâm hồn tôi. Từ đó, người đọc quý mến Nguyễn Bính bởi ông đã tạo được phong vị thơ đặc biệt cho mình: phong vị lục bát ca dao. Bài thơ Xuân về lại mang phong vị khác cho bạn đọc: phong vị thơ mới thất ngôn.

Viết về mùa xuân, mỗi người một nét nhìn, một phong vị văn thơ khác nhau nhưng hầu như ai cũng ca ngợi sức sống của đất trời, của con người mùa xuân. Với Nguyễn Bính mùa xuân bao trùm lên tất cả. Trong bốn khổ thơ bảy chữ tác giả là người quan sát và miêu tả bằng những câu thơ trong sáng, nhẹ nhàng. Nét xuân đầu tiên mà nhà thơ cảm nhận từ một vị trí gần với nhà thơ nhất:

“Đã thấy xuân về với gió đông
Với trên màu má gái chưa chồng
Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm
Ngước mắt nhìn giời đôi mắt trong.”

“Xuân về" đầu tiên mà Nguyễn Bính “thấy” chỉ là cảm nhận qua tác nhân khác, qua hình ảnh khác. Tác nhân ấy là “gió đông”, có thể không còn làm da lạnh buốt khiến nhà thơ cảm nhận là xuân đang về và tác nhân ấy chính là “cổ hàng xóm" mới lớn có “màu má - đôi mắt trong" biểu hiện sức sống dạt dào, thanh tân của những ngày đầu năm mới. Xuân gần là ở đó, là ở gió, là cô láng giềng đang lơ đãng nhìn trời dưới mái hiên...

“Rồi xa hơn một chút:
Từng đàn con trẻ chạy xun xoe
Mưa tạnh giời quang nắng mới hoe
Lá nõn nhành non ai tráng bạc
Gió về từng trận gió bay đi.”

Khung cảnh thật tươi sáng và trong lành. Trời không mưa. “Gió về từng trận gió hay đi", câu thơ mang lại cho người đọc không khí mát mẻ, nhẹ nhàng mà không là gió lốc, gió xoáy. “Lá nõn nhành non ai tráng bạc" là một câu thơ đẹp về hình ảnh, hay về nội dung. Đẹp về hình ảnh “lá nõn nhành non” và nghệ thuật so sánh “ai tráng bạc”; hay là ở chỗ nó làm phong phú thêm sắc màu tươi trẻ của ngày xuân, làm cái nền rất phù hợp với niềm vui của “đàn con trẻ”. Bức tranh xuân về mở rộng thêm:

“Thong thả dân gian nghỉ việc đồng
Lúa thì con gái mượt như nhung
Đầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng
Ngào ngạt hương hay, bướm vẽ vòng.”

Không gian bức tranh Xuân về mở rộng thành một tổng thể. Từ mái hiên hàng xóm, lá nõn nhành non rộng ra khu vườn với màu sắc của hoa bưởi hoa cam ngọt ngào hương thơm và đầy ong bướm lượn. Tất cả nằm trong khung nền của cánh đồng làng “lúa thì con gái mượt như nhung". Lúa đang lớn, đang vào lúc sắp trổ bông lá xanh mềm mại trải khắp. Lúc này, nhà nông nhàn nhã nghĩ tới việc “tháng giêng ăn tết ở nhà"

Phần cuối cùng của bức tranh tổng thể Xuân về là hình ảnh

“Trên đường cát mịn một đôi cô
Yếm đỏ khăn thâm trẩy hội chùa
Gậy trúc dắt bà già tóc bạc
Tay lần tràng hạt miệng nam mô.”

Nếu ở hai khổ thơ giữa nhà thơ miêu tả cảnh cây cỏ, ruộng lúa,... là chính thì ở khổ thơ trên nhà thơ lại tập trung miêu tả về con người đang đón xuân về, đặc biệt là các cô gái và các cụ bà. Ba khổ thơ đầu, nhà thơ miêu tả xuân đang về với con người, còn ở khổ thơ này thì xuân đã về, con người thực sự đón xuân. Một trong những hình thức đón xuân ấy là “trẩy hội chùa”. Cảnh trong khổ thơ là cảnh làng quê miền Bắc vào những năm trước Cách mạng tháng Tám. 

Như trên đã viết, Xuân về mang một phong vị khác trong thơ ca của Nguyễn Bính. Cảnh Xuân thì vẫn là cảnh đầy sức sống với cảnh sắc tươi sáng, trong lành của làng quê Việt Nam nhưng những dòng thơ về cảnh sắc ấy lại là những dòng thơ mới đang trong thời khuấy động thành phong trào. 

Câu 1.Văn bản "Chữ ta" thuộc kiểu văn bản nghị luận. Trong văn bản, tác giả trình bày quan điểm cá nhân, lập luận bằng dẫn chứng cụ thể, nhằm bày tỏ suy nghĩ về việc sử dụng tiếng nước ngoài ở Việt Nam và khẳng định cần phải giữ gìn, tôn trọng tiếng Việt – tiếng mẹ đẻ của dân tộc.

Câu 2.Vấn đề được đề cập đến trong văn bản là thái độ của người Việt đối với tiếng mẹ đẻ trong bối cảnh mở cửa, hội nhập với thế giới. Tác giả phê phán việc lạm dụng tiếng nước ngoài trong bảng hiệu, báo chí ở Việt Nam, từ đó nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc thông qua việc tôn trọng và đề cao tiếng Việt.

Câu 3.Tác giả đã sử dụng phép so sánh đối chiếu giữa Hàn Quốc và Việt Nam để làm rõ luận điểm:

  • Ở Hàn Quốc:
    • Mặc dù là một quốc gia phát triển, có quan hệ rộng rãi với phương Tây, nhưng họ vẫn giữ gìn và đề cao ngôn ngữ dân tộc.
    • Quảng cáo có ở nhiều nơi, nhưng không đặt ở công sở, hội trường hay danh lam thắng cảnh.
    • Trên các bảng hiệu, chữ Hàn Quốc luôn được viết to, đặt phía trên, còn chữ tiếng Anh (nếu có) thì nhỏ, nằm phía dưới.
    • Báo chí chủ yếu viết bằng tiếng Hàn, chỉ một số tạp chí khoa học hoặc ngoại thương mới có mục lục bằng tiếng nước ngoài để phục vụ người đọc nước ngoài.
  • Ở Việt Nam:
    • Có tình trạng lạm dụng tiếng nước ngoài: chữ tiếng Anh to hơn chữ Việt, xuất hiện nhiều trên các bảng hiệu ở nơi công cộng.
    • Một số tờ báo của nhà nước có thói quen tóm tắt các bài viết bằng tiếng nước ngoài ở trang cuối, gây lãng phí thông tin đối với người đọc trong nước.
    • Câu 4.
  • Thông tin khách quan:
    “Khắp nơi đều có quảng cáo nhưng không bao giờ quảng cáo thương mại được đặt ở những công sở, hội trường lớn, danh lam thắng cảnh.”
    → Đây là một quan sát thực tế về Hàn Quốc, mang tính khách quan.
  • Ý kiến chủ quan:
    “Phải chăng, đó cũng là thái độ tự trọng của một quốc gia khi mở cửa với bên ngoài, mà ta nên suy ngẫm.”
    → Đây là suy nghĩ, đánh giá mang tính cá nhân của tác giả, thể hiện ý kiến chủ quan.
  • Câu 5.
  • Tác giả lập luận rõ ràng, chặt chẽ và thuyết phục. Tác giả sử dụng phép so sánh và đối chiếu giữa hai quốc gia (Hàn Quốc và Việt Nam) để nêu bật sự khác biệt trong cách ứng xử với ngôn ngữ dân tộc.
    Lập luận được củng cố bằng những quan sát thực tế cụ thể và đi kèm với nhận xét sâu sắc, từ đó làm nổi bật quan điểm về việc cần giữ gìn, tôn trọng tiếng mẹ đẻ như một biểu hiện của lòng tự trọng dân tộc.


a,- Mùa khô sâu sắc và kéo dài, thiếu nước ngọt cho sản xuất và sinh hoạt, xâm nhập mặn gây nhiều trở ngại đối với đời sống và sản xuất ở các vùng ven biển. - Chất lượng môi trường ở nhiều vùng suy thoái, đặc biệt là nguồn nước sông rạch. - Tài nguyên khoáng sản nghèo nàn.
b,

Biến đổi khí hậu đã và đang tác động tới Đồng bằng sông Cửu Long, hạn hán xuất hiện nhiều hơn và nước biển dâng làm nhiều diện tích đất nông nghiệp bị mất đi. Chính vì vậy giải pháp chủ yếu để ứng phó với biến đổi khí hậu ở Đồng bằng sông Cửu Long là sử dụng hợp lí tài nguyên và chuyển đổi cơ cấu kinh tế.



Đáp ứng nguyện vọng chính đáng của nhân dân cả nước, đồng thời cũng phù hợp với thực tế lịch sử dân tộc - "Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt nam là một" - Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (9 - 1975) đề ra nhiệm vụ hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước

- Sau năm 1991, Chiến tranh lạnh chấm dứt, vấn đề Cam-pu-chia được giải quyết, tình hình chính trị của khu vực được cải thiện rõ rệt, tạo điều kiện cho việc mở rộng ASEAN.

+ Tháng 7-1995, Việt Nam chinh thức trở thành thành viên thứ 7 của ASEAN. Tháng 7-1997, Lào và Mi-an-ma cũng gia nhập ASEAN.

+ Tháng 4-1999, Cam-pu-chia được kết nạp và trở thành thành viên thứ 10 của ASEAN.

- Năm 1999, lần đầu tiên trong lịch sử khu vực, tất cả các nước Đông Nam Á đều cùng đứng trong một tổ chức thống nhất. Đây là cơ sở để ASEAN chuyển trọng tâm hoạt động sang hợp tác kinh tế và xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hoà bình, ổn định và phát triển phồn vinh.

+ Năm 1992, ASEAN kí kết Hiệp định khung về tăng cường hợp tác kinh tế ASEAN và thoả thuận về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA).

+ Năm 2007, Hiến chương ASEAN ra đời, tạo cơ sở pháp lí để tăng cường liên kết và hợp ASEAN.

+ Năm 2015, Cộng ASEAN chính thức được thành lập, dánh dấu mốc phát triển quan trọng, dưa ASEAN bước vào giai đoạn hợp tác mới.

+ Năm 2020, Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) được kí kết giữa ASEAN và năm đối tác (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ô-xtrây-li-a và Niu Di-lân), có hiệu lực từ tháng 1-2022, góp phần tạo ra một khu vực thương mại tự do lớn nhất thế giới.

- Tình hình kinh tế:

+ Từ năm 1991 đến nay, nền kinh tế Nhật Bản vẫn chưa thoát trì trệ, xen lẫn giữa suy thoái tăng trưởng yếu ớt.

+ Tuy nhiên, Nhật Bản vẫn là một trong những tâm kinh tế-tài chính lớn thế giới.

+ Năm 2010, vị thế nền kinh tế lớn thứ hai thế giới xác lập trong hơn bốn thập kỉ của Nhật Bản đã bị Trung Quốc vượt qua.

- Tình hình xã hội:

+ Nhật Bản là quốc gia có chất cuộc sống cao với hệ thống tế, chăm sóc sức khoẻ đảm bảo toàn diện.

+ Nhật Bản vẫn là quốc gia có thu nhập bình quân đầu người cao, đạt hơn 39.000 USD; chỉ số phát triển con người (HDI) ở mức rất cao, đứng thứ 7 thế giới, tuổi thọ trung bình thuộc nhóm nước cao nhất thế giới (85 tuổi).