

Nguyễn Ánh Dương
Giới thiệu về bản thân



































câu 1
Sự phát triển của trí tuệ nhân tạo, đặc biệt là ChatGPT, đã mang lại nhiều tiện ích trong học tập, làm việc và cuộc sống hằng ngày. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích rõ rệt, ChatGPT cũng tác động không nhỏ đến khả năng tư duy, sáng tạo của con người. Một mặt, ChatGPT giúp người dùng tiếp cận nhanh chóng với lượng kiến thức khổng lồ, gợi mở nhiều ý tưởng mới, hỗ trợ giải quyết vấn đề hiệu quả. Nhờ đó, nếu biết sử dụng hợp lý, con người có thể phát triển tư duy một cách linh hoạt và sáng tạo hơn. Mặt khác, việc quá phụ thuộc vào ChatGPT dễ dẫn đến lối suy nghĩ thụ động, sao chép máy móc, lười tìm tòi và thiếu chính kiến. Lâu dần, khả năng tư duy độc lập và sáng tạo cá nhân có thể bị thui chột. Vì vậy, con người cần sử dụng ChatGPT như một công cụ hỗ trợ, không nên coi nó là giải pháp thay thế cho sự nỗ lực và suy nghĩ cá nhân. Chỉ khi biết kết hợp hài hòa giữa công nghệ và tư duy con người, chúng ta mới có thể tận dụng tối đa lợi ích mà ChatGPT mang lại.
câu 2.
Bài thơ Mẹ của nhà thơ Bằng Việt viết năm 1972, trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra khốc liệt. Qua những hồi tưởng của người lính về người mẹ già nơi quê nhà, bài thơ không chỉ thể hiện tình mẫu tử thiêng liêng mà còn phản ánh vẻ đẹp tâm hồn người mẹ Việt Nam trong chiến tranh – tần tảo, hy sinh, giàu lòng yêu nước. Đây là một tác phẩm tiêu biểu cho thơ ca kháng chiến với nhiều nét đặc sắc cả về nội dung và nghệ thuật.
Về nội dung, bài thơ là lời tâm tình của người con – người lính – trong những ngày bị thương nằm lại giữa mùa mưa, nhớ về mẹ và mái nhà xưa. Đó là hình ảnh người mẹ thầm lặng, dịu dàng, lo toan cho con từ bữa ăn đến giấc ngủ, từ trái bưởi đào đến bát canh khế ngọt. Mẹ không chỉ chăm sóc con về thể xác mà còn là nơi nâng đỡ tinh thần cho con giữa những năm tháng chiến tranh đầy gian khó. Mẹ đại diện cho hậu phương vững chắc, là quê hương, là nơi chốn bình yên để người lính hướng về. Hình ảnh mẹ cũng là biểu tượng cho biết bao người mẹ Việt Nam khác, kiên cường và nhân hậu, gánh vác mọi gian lao để tiếp sức cho tiền tuyến. Ở những câu thơ cuối, người con nhận ra dòng máu đang chảy trong mình không còn là của riêng mình nữa – đó là máu của mẹ, của quê hương, của Tổ quốc. Tình mẹ hòa trong tình yêu đất nước, trở thành động lực lớn lao cho người lính ra trận.
Về nghệ thuật, bài thơ mang giọng điệu trầm lắng, giàu chất trữ tình và suy tư. Bằng Việt sử dụng thể thơ tự do với những dòng thơ dài ngắn đan xen, gần với nhịp kể chuyện và tâm sự. Hình ảnh thơ giản dị, gần gũi, đậm chất dân gian như “trái bưởi đào”, “canh tôm nấu khế”, “khoai nướng, ngô bung”… giúp người đọc cảm nhận rõ hơn không gian gia đình thân thương, đầm ấm. Ngoài ra, các biện pháp tu từ như nhân hóa, ẩn dụ, điệp ngữ… được sử dụng tinh tế, góp phần làm nổi bật hình ảnh người mẹ và tình cảm sâu nặng của người con. Nhịp thơ chậm rãi, giàu cảm xúc cũng khiến bài thơ như một khúc hát ru buồn đầy yêu thương và tiếc nhớ.
Tóm lại, Mẹ là một bài thơ giàu tính nhân văn, kết hợp hài hòa giữa cảm xúc cá nhân và tình cảm lớn lao với đất nước. Tác phẩm không chỉ là lời tri ân đối với mẹ mà còn là tiếng lòng của cả một thế hệ ra đi vì Tổ quốc, mang theo trong tim hình bóng mẹ hiền – hình ảnh không thể tách rời với quê hương và dân tộc.
Câu 1: PTBĐ chính dc sử dụng trong văn bản: Nghị luận
Câu 2. Vấn đề dc đặt ra trong VB là tầm quan trọng của việc ghi chép lại ý tưởng, tránh lãng phí những suy nghĩ sáng tạo.
Câu 3. Tác giả bài viết khuyến cáo cta kh nên tin tưởng vào não bộ chúng ta vì:
+ nó kh thể ghi nhớ tất cả mọi thứ một cách hoàn hảo.
+ những ý tưởng đột nhiên loé lên trong đầu, dù là có tuyệt vời đến mấy thì ta cũng kh thể nhớ hết chúng dc nếu kh dc ghi chép lại.
Câu 4. Trong VB, để có thể trở thành một người thành công, tác giả bài viết đã đưa ra những lời khuyên:
+ Luôn ghi lại ý tưởng ngay khi chúng xuất hiện, dù bạn nghĩ rằng mình có thể nhớ.
+ Kh vội vàng sắp xếp thông tin mà hãy để ý tưởng phát triển tự nhiên.
+ Xem lại và chọn lọc ý tưởng thường xuyên để tìm ra những điều hữu ích nhất.
+ Sử dụng công cụ hỗ trợ như sổ tay, ứng dụng ghi chú để lưu trữ ý tưởng một cách hiệu quả.
Câu 5. Cách lập luận của tác giả rất chặt chẽ, logic và dễ hiểu. Tác giả bài viết đã sử dụng nhiều ví dụ thực tế giúp cho bài đọc rất thuyết phục đối với ng đọc, ng nghe và cách diễn đạt gần gũi khiến nội dung trở nên hấp dẫn hơn.
Câu 1.Di tích lịch sử là những công trình mang giá trị văn hóa, lịch sử vô cùng to lớn, cần được bảo tồn nghiêm ngặt. Tuy nhiên, hiện nay nhiều di tích đang đứng trước nguy cơ xuống cấp nghiêm trọng do tác động của thời gian, thiên nhiên và con người. Để hạn chế tình trạng này, trước hết cần nâng cao ý thức cộng đồng thông qua công tác tuyên truyền về vai trò, ý nghĩa của các di tích đối với lịch sử và đời sống tinh thần dân tộc. Bên cạnh đó, Nhà nước và các cơ quan chức năng cần tăng cường đầu tư kinh phí cho công tác trùng tu, bảo tồn di tích theo đúng nguyên tắc khoa học, không phá vỡ giá trị nguyên bản. Ngoài ra, cần có chế tài xử phạt nghiêm khắc đối với các hành vi xâm hại di tích. Đồng thời, việc kết hợp khai thác du lịch với bảo tồn phải được thực hiện một cách bền vững, tránh thương mại hóa quá mức. Bảo vệ di tích lịch sử chính là giữ gìn ký ức, cội nguồn và bản sắc của dân tộc cho thế hệ mai sau.
Câu 2.Bài thơ “Đường vào Yên Tử” của Hoàng Quang Thuận là một tác phẩm đặc sắc, khắc họa vẻ đẹp kỳ vĩ, huyền ảo của vùng đất thiêng Yên Tử, gắn liền với Phật hoàng Trần Nhân Tông và những giá trị tâm linh sâu sắc. Bài thơ không chỉ là một bức tranh thiên nhiên mà còn là một hành trình tâm linh, hướng con người tới sự thanh tịnh, thanh thản.
Về nội dung, bài thơ mở ra một không gian mênh mông, thiêng liêng, với “vẹt đá mòn chân lễ hội mùa” – hình ảnh của con người hành hương tìm về cõi Phật, nơi “trập trùng núi biếc cây xanh lá” tạo nên một cảnh sắc mộng mơ. Cảnh vật Yên Tử hiện lên huyền bí với “đàn bướm tung bay trong nắng trưa” và “muôn vạn đài sen mây đong đưa”, phản ánh một không gian thanh thoát, tĩnh lặng, nơi con người có thể tìm thấy sự bình yên trong tâm hồn. Đặc biệt, tác giả đã khéo léo sử dụng hình ảnh "Trông như đám khói người Dao vậy" để gợi lên sự hòa quyện giữa thiên nhiên và đời sống con người, giữa thế giới thực và không gian tâm linh.
Về nghệ thuật, bài thơ sử dụng thể thơ ngũ ngôn nhẹ nhàng, uyển chuyển, với ngôn ngữ trong sáng, giàu tính tạo hình. Các biện pháp tu từ như ẩn dụ, so sánh, nhân hóa được sử dụng một cách tinh tế, tạo nên những hình ảnh giàu biểu cảm. Chẳng hạn, việc so sánh “muôn vạn đài sen mây đong đưa” với “đám khói người Dao” không chỉ tạo sự liên kết giữa thiên nhiên và con người, mà còn làm nổi bật sự giao hòa giữa cõi thế và cõi thiêng.
Bài thơ cũng rất thành công trong việc khắc họa không khí trang nghiêm của một nơi thờ Phật, đồng thời gợi lên sự thiêng liêng, thanh tịnh của Yên Tử. Cảm xúc chủ đạo trong bài thơ là sự tôn kính, chiêm ngưỡng vẻ đẹp kỳ vĩ của thiên nhiên và sự linh thiêng của đất Phật.
Tóm lại, bài thơ “Đường vào Yên Tử” là một tác phẩm đặc sắc, giàu tính nghệ thuật và ý nghĩa. Nó không chỉ ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên mà còn là một tác phẩm thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa thiên nhiên, con người và tâm linh, tạo nên một không gian thiêng liêng, sâu lắng.
Câu 1.Văn bản trên thuộc kiểu văn bản thuyết minh
Câu 2.Đối tượng thông tin được đề cập trong văn bản là đô thị cổ Hội An – một di sản văn hóa của Việt Nam, được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới.
Câu 3. Câu văn trình bày thông tin theo trình tự thời gian, từ quá khứ đến hiện tại:
- Bắt đầu với thời điểm hình thành (thế kỷ XVI),
- Đạt đỉnh thịnh vượng (thế kỷ XVII–XVIII),
- Suy giảm (từ thế kỷ XIX),
- Kết thúc với tình trạng hiện tại: “chỉ còn là một đô thị vang bóng một thời”.
Câu 4.Phương tiện phi ngôn ngữ được sử dụng là hình ảnh “Phố cổ Hội An”
Tác dụng:
- Giúp người đọc hình dung trực quan về không gian đô thị cổ.
- Tăng sức thuyết phục cho nội dung thuyết minh.
- Góp phần làm cho văn bản trở nên sinh động và hấp dẫn hơn.
Câu 5.
- Mục đích: Giới thiệu, cung cấp thông tin về giá trị lịch sử, văn hóa, kiến trúc của đô thị cổ Hội An và lý do Hội An được công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới.
- Nội dung:
- Vị trí địa lý và quá trình hình thành của đô thị cổ Hội An.
- Vai trò, giá trị văn hóa – lịch sử – giao thương và bảo tồn của Hội An.
- Việc Hội An được công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới.
câu 1:
Đối với mỗi người dân VN, tiếng Việt chính là tiếng mẹ đẻ, là thứ tiếng thiêng liêng đi vào đời sống văn hóa-lịch sử và cũng là vũ khí đưa dân tộc thoát ra khỏi xiềng xích nô lệ. Thật vậy, để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt thì giới trẻ càng đóng một vai trò quan trọng hơn bao giờ hết. Đầu tiên, thế hệ trẻ có trách nhiệm trong việc giữ gìn được màu sắc nguyên bản của tiếng Việt trong lời ăn tiếng nói hàng ngày. Từ lời ăn tiếng nói, đến chữ viết, chúng ta nên sử dụng những từ ngữ thuần Việt nếu có thể và càng nhiều càng tốt. Nếu chúng ta quá lạm dụng từ mượn nước ngoài, tiếng Việt sẽ bị phần nào hao mòn đi trong lời ăn tiếng nói của người dân. Thứ hai, để giữ gìn được sự trong sáng của Tiếng Việt, thế hệ trẻ có trách nhiệm lan truyền vẻ đẹp của Tiếng Việt đến càng nhiều người càng tốt. Từ bạn bè trong nước, đến bạn bè quốc tế, chúng ta đều có thể thể hiện với họ tình yêu của chúng ta đối với những tác phẩm văn học, những bài thơ, ca dao, với tất cả những gì thuộc về Tiếng Việt. Chúng ta không phải trở thành một nhà tiếng việt học, hay một nhà thơ, nhà văn để có thể thể hiện tình yêu của mình đối với Tiếng việt. Đơn giản hơn, chỉ qua lời ăn tiếng nói hàng ngày, chúng ta sử dụng tiếng việt một cách chuẩn mực và đúng đắn thì cũng là giữ gìn sự trong sáng của tiếng việt rồi.
câu 2:
Có thể nhận thấy được rằng việc chúng ta bảo vệ, chăm sóc trẻ em là một trong những nhiệm quan trọng hàng đầu của mỗi quốc gia, dân tộc, bởi "Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai" (UNESCO). Hay như chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng nói “Trẻ em như búp trên cành” cho nên việc chúng ta yêu thương các em trẻ em là trách nhiệm của toàn xã hội chứ không phải của riêng ai.
Nhận thấy được rằng chính tương lai của mỗi dân tộc và của toàn nhân loại phụ thuộc vào sự chăm sóc, giáo dục thế hệ trẻ. Đồng thời nó cũng lại thật phụ thuộc vào sức khoẻ, trí tuệ, năng lực… của thế hệ trẻ. Chúng ta như không thể nào có thể quên được ngay trong "Thư gửi học sinh nhân ngày khai trường", Bác Hồ viết: "Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có được vẻ vang sánh vai các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu". Thông qua lời căn dặn này ta đồng thời cũng có thể nhận thấy được trẻ em là người sẽ quyết định tương lai, vị thế của mỗi dân tộc trên trường quốc tế.
Quả không sai khi người ta nói chỉ cần xem công tác kiểm tra các vấn đề bảo vệ, chăm sóc trẻ em của một đất nước thôi thì có thể đánh giá được trình độ văn minh và phần nào bản chất của một xã hội. Ta như nhận thấy được ở đất nước Nhật. Nước Nhật là một quốc gia không có nhiều tài nguyên thiên nhiên trong khi đó lại phải đối mặt với rất nhiều thiên tai như động đất và núi lửa nhưng đất nước vẫn vươn lên trở thành một trong những siêu cường lớn nhất hiện nay. Đó chính là việc nước Nhật luôn luôn coi trọng và phát triển con người. Người Nhật luôn dạy con cái – những thế hệ mầm non tương lai của đất nước họ rất nhiều bài học. Họ thực sự quan tâm đến thế hệ con trẻ và luôn chăm lo đến đời sống của các em. Có như vậy thì đất nước họ mới có thể có được vị thế vững chắc như ngày hôm nay.
Ta nhận thấy được chính nhờ sự quan tâm của cộng đồng quốc tế, chính phủ Việt Nam, hay đó cũng còn là chính quyền địa phương và các tổ chức xã hội đối với trẻ em hiện nay được quan tâm trên nhiều khía cạnh. Trong những năm 1989, Công ước Liên hợp quốc về Quyền Trẻ em dường như cũng lại ra đời đã ghi nhận các quyền cơ bản của trẻ em như các nhóm quyền sống còn, và có cả các nhóm quyền bảo vệ, nhóm quyền phát triển và nhóm quyền tham gia. Có thể khẳng định được rằng cũng chính công ước này thể hiện sự tôn trọng và quan tâm của cộng đồng quốc tế đối với trẻ em. Đồng thời nó cũng chính là những điều kiện cần thiết để trẻ em được phát triển đầy đủ trong bầu không khí hạnh phúc, yêu thương và thông cảm. Sự kiện tiếp theo có thể nhận thấy được vào năm 1990 Tuyên bố thế giới… đã đề ra những nhiệm vụ cụ thể và toàn diện nhằm bảo vệ và chăm sóc trẻ em cùng với một bản kế hoạch hành động khá chi tiết trên từng mặt cơ bản. Dễ dàng nhận thấy được cũng chính tuyên bố này một lần nữa thể hiện sự quan tâm thích đáng của cộng đồng quốc tế đối với các quyền lợi và tương lai của trẻ em.
Hiện nay ta như nhận thấy được cũng chính vấn đề bảo vệ, chăm sóc trẻ em được Chính phủ Việt Nam đặc biệt quan tâm. Việt Nam vinh dự và cũng thật tự hào là nước thứ hai trên thế giới kí và phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về Quyền Trẻ em. Và ta như thấy được cũng chỉ sau Hội nghị cấp cao thế giới về trẻ em năm 1990, lúc này đây thì Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quyết định Chương trình hành động vì sự sống còn. Đồng thời như cũng thấy được cũng chính quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ em Việt Nam từ năm 1991 đến 2000, đặt thành một bộ phận của chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Trên cơ sở những luật pháp như được ban bố kia thì các ngành, các cấp phải có những hoạt động thật cụ thể để nhằm đảm bảo các quyền lợi của trẻ em như các chính sách hỗ trợ kinh tế đối với trẻ em nghèo để các em có thể đến trường, quan tâm xây dựng cơ sở vật chất, trường học, thiết bị dạy học… để nâng cao chất lượng giáo dục, kêu gọi các tổ chức xã hội và nhân dân đóng góp xây đựng trường lớp, giúp đỡ trẻ em khuyết tật, đóng góp quỹ vì người nghèo, vì trẻ em bị nhiễm chất độc màu da cam, khuyến khích mở các lớp học tình thương, các trung tâm bảo trợ trẻ em mồ côi, tàn tật, lang thang không nơi nương tựa…
Trẻ em cũng cần được yêu thương và chăm sóc cho nên những hành động có hại hay mang đến những tổn thương cho các em cần được lên án và tẩy chay.
Hiện nay thì các tình trạng bạo hành trẻ em của nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới cũng đang có xu thế gia tăng và theo nhiều cấp độ và hình thức khác nhau. Bên cạnh những việc làm có ý nghĩa như hiện tượng cá nhân tổ chức thu nhận trẻ em cơ nhỡ, lang thang thì vẫn còn không ít những quyền của trẻ em hiện nay đang bị xâm hại và không được coi trọng. Tất cả những vấn nạn gây ra nhiều tổn thương về tinh thần cũng như thể xác của các em cũng cần được đưa ra để có những biện pháp xử lý cụ thể nhất, nhằm có thể răn đe cho người sau. Trẻ em cũng nên được giáo dục hiểu biết về luật pháp cũng như những quyền của chính mình. Các em luôn xứng đáng với sự quan tâm, chăm sóc của người thân và toàn xã hội.
Trẻ em chính là chủ nhân tương lai của đất nước, nên hãy biết yêu quý và bảo vệ các em để tránh những điều không tốt làm tổn hại đến nhân phẩm cũng như thể xác.
- Về kinh tế:
+ Nhật Bản duy trì vị trí thứ hai thế giới về kinh tế từ cuối thế kỉ XX đến năm 2010.
+ Các lĩnh vực sản xuất ô tô, tàu thuỷ, rô-bốt, công nghệ sinh học, công nghệ nano, năng lượng tái tạo, mặt hàng điện tử,... của Nhật Bản vẫn dẫn đầu thế giới.
+ Tuy nhiên, tốc độ tăng tưởng kinh tế của Nhật Bản châm lại, không ổn định, phục hồi chậm sau các cuộc khủng hoảng năm 1997 và những năm 2008 - 2009.
- Về xã hội: Nhật Bản phải đối phó với nhiều vấn đề xã hội như tình trạng già hoá dân số, thiếu lao động, dân số tăng trưởng âm, tỉ lệ tự tử và tội phạm gia tăng,...
- Năm 2003, các nhà lãnh đạo của ASEAN quyết định thành lập Cộng đồng ASEAN vào năm 2020. Tuy nhiên, ngày 31/12/2015, Cộng đồng ASEAN đã chính thức được thành lập, sớm hơn 5 năm so với dự kiến.
- Cộng đồng ASEAN gồm có ba trụ cột: Cộng đồng Chính trị - An ninh, Cộng đồng Kinh tế, Cộng đồng Văn hoá - Xã hội.
- Các lĩnh vực hợp tác của cộng đồng ASEAN:
+ Cộng đồng Chính trị - An ninh: chính trị, quốc phòng, an ninh và phòng chống tội phạm xuyên quốc gia, tư pháp,...
+ Cộng đồng Kinh tế: thương mại hàng hoá, đầu tư, dịch vụ, thoả thuận thừa nhận lẫn nhau,...
+ Cộng đồng Văn hoá - Xã hội: phát triển con người, phúc lợi và bảo hiểm xã hội, các quyền và bình đẳng xã hội, xây dựng bản sắc ASEAN,..
- Ý nghĩa của sự hình thành Cộng đồng ASEAN: đánh dấu mốc quan trọng trong tiến trình liên kết, đảm bảo hoà bình, an ninh và tự cường lâu dài, chuẩn bị cho ASEAN bước vào giai đoạn mới với những mục tiêu liên kết cao hơn.
a) Một số khó khăn chính về mặt tự nhiên ở Đồng bằng sông Cửu Long:
- Diện tích đất phèn đất mặn lớn phải đầu tư lớn và mất nhiều thời gian để cải tạo.
- Mùa khô sâu sắc và kéo dài, thiếu nước ngọt cho sản xuất và sinh hoạt, xâm nhập mặn gây nhiều trở ngại đối với đời sống và sản xuất ở các vùng ven biển.
- Chất lượng môi trường ở nhiều vùng suy thoái, đặc biệt là nguồn nước sông rạch.
- Tài nguyên khoáng sản nghèo nàn.
b. Một số biện pháp thích ứng với biến đổi khí hậu ở châu thổ sông Cửu Long:
* Trong nông nghiệp:
- Lai tạo các giống cây trồng chịu mặn, chịu hạn;
- Chuyển đổi đất trồng lúa sang trồng cây khác hoặc nuôi trồng thuỷ sản ở các khu vực đất bị nhiễm phèn, nhiễm mặn, hạn hán.
- Xây dựng các mô hình kinh tế sống chung với lũ; thích ứng nước lợ, nước mặn, thích ứng với thiên tai.
- Trồng rừng và bảo vệ rừng ngập mặn; xây dựng kênh mương, xây dựng đê biển, kè chắn sóng, cống ngăn mặn,...
* Trong du lịch:
- Khai thác những loại hình du lịch thích ứng với biến đổi khí hậu, trọng tâm là du lịch sinh thái gắn với sông nước, miệt vườn, rừng ngập mặn, rừng tràm; du lịch cộng đồng thân thiện với môi trường, bảo vệ cảnh quan thiên nhiên.
- Đối với cộng đồng, cần có các biện pháp để đảm bảo nguồn nước sạch phục vụ sinh hoạt, đặc biệt trong mùa khô.
a) Một số khó khăn chính về mặt tự nhiên ở Đồng bằng sông Cửu Long:
- Diện tích đất phèn đất mặn lớn phải đầu tư lớn và mất nhiều thời gian để cải tạo.
- Mùa khô sâu sắc và kéo dài, thiếu nước ngọt cho sản xuất và sinh hoạt, xâm nhập mặn gây nhiều trở ngại đối với đời sống và sản xuất ở các vùng ven biển.
- Chất lượng môi trường ở nhiều vùng suy thoái, đặc biệt là nguồn nước sông rạch.
- Tài nguyên khoáng sản nghèo nàn.
b. Một số biện pháp thích ứng với biến đổi khí hậu ở châu thổ sông Cửu Long:
* Trong nông nghiệp:
- Lai tạo các giống cây trồng chịu mặn, chịu hạn;
- Chuyển đổi đất trồng lúa sang trồng cây khác hoặc nuôi trồng thuỷ sản ở các khu vực đất bị nhiễm phèn, nhiễm mặn, hạn hán.
- Xây dựng các mô hình kinh tế sống chung với lũ; thích ứng nước lợ, nước mặn, thích ứng với thiên tai.
- Trồng rừng và bảo vệ rừng ngập mặn; xây dựng kênh mương, xây dựng đê biển, kè chắn sóng, cống ngăn mặn,...
* Trong du lịch:
- Khai thác những loại hình du lịch thích ứng với biến đổi khí hậu, trọng tâm là du lịch sinh thái gắn với sông nước, miệt vườn, rừng ngập mặn, rừng tràm; du lịch cộng đồng thân thiện với môi trường, bảo vệ cảnh quan thiên nhiên.
- Đối với cộng đồng, cần có các biện pháp để đảm bảo nguồn nước sạch phục vụ sinh hoạt, đặc biệt trong mùa khô.
a) Một số khó khăn chính về mặt tự nhiên ở Đồng bằng sông Cửu Long:
- Diện tích đất phèn đất mặn lớn phải đầu tư lớn và mất nhiều thời gian để cải tạo.
- Mùa khô sâu sắc và kéo dài, thiếu nước ngọt cho sản xuất và sinh hoạt, xâm nhập mặn gây nhiều trở ngại đối với đời sống và sản xuất ở các vùng ven biển.
- Chất lượng môi trường ở nhiều vùng suy thoái, đặc biệt là nguồn nước sông rạch.
- Tài nguyên khoáng sản nghèo nàn.
b. Một số biện pháp thích ứng với biến đổi khí hậu ở châu thổ sông Cửu Long:
* Trong nông nghiệp:
- Lai tạo các giống cây trồng chịu mặn, chịu hạn;
- Chuyển đổi đất trồng lúa sang trồng cây khác hoặc nuôi trồng thuỷ sản ở các khu vực đất bị nhiễm phèn, nhiễm mặn, hạn hán.
- Xây dựng các mô hình kinh tế sống chung với lũ; thích ứng nước lợ, nước mặn, thích ứng với thiên tai.
- Trồng rừng và bảo vệ rừng ngập mặn; xây dựng kênh mương, xây dựng đê biển, kè chắn sóng, cống ngăn mặn,...
* Trong du lịch:
- Khai thác những loại hình du lịch thích ứng với biến đổi khí hậu, trọng tâm là du lịch sinh thái gắn với sông nước, miệt vườn, rừng ngập mặn, rừng tràm; du lịch cộng đồng thân thiện với môi trường, bảo vệ cảnh quan thiên nhiên.
- Đối với cộng đồng, cần có các biện pháp để đảm bảo nguồn nước sạch phục vụ sinh hoạt, đặc biệt trong mùa khô.