

Đặng Thị Thanh Thuỳ
Giới thiệu về bản thân



































Câu 1. Theo bài viết, hiện tượng tiếc thương sinh thái là nỗi đau khổ trước những mất mát về sinh thái mà con người đã trải qua hoặc lo sợ sẽ xảy ra trong tương lai, do biến đổi khí hậu gây ra, với mức độ ảnh hưởng tâm lí giống như mất người thân.
Câu 2. Bài viết trình bày thông tin theo trình tự: giới thiệu hiện tượng -> định nghĩa và dẫn nguồn khoa học -> nêu ví dụ cụ thể -> mở rộng phạm vi ảnh hưởng -> nêu kết quả khảo sát.
Câu 3. Tác giả sử dụng các bằng chứng như: công trình của hai nhà khoa học Ashlee Cunsolo và Neville R. Ellis (2018), chia sẻ từ cộng đồng Inuit và người làm nông ở Australia, phản ứng của các tộc người bản địa khi rừng Amazon cháy (2019), và kết quả khảo sát của Caroline Hickman năm 2021.
Câu 4. Tác giả tiếp cận vấn đề biến đổi khí hậu từ góc độ tâm lí và nhân văn, không chỉ phản ánh tác động vật chất mà nhấn mạnh ảnh hưởng sâu sắc đến tinh thần, đặc biệt là những cộng đồng gắn bó chặt chẽ với thiên nhiên.
Câu 5. Thông điệp sâu sắc nhất là: Biến đổi khí hậu không chỉ là thảm họa môi trường, mà còn là khủng hoảng tâm lí và văn hoá, ảnh hưởng sâu sắc đến bản sắc và sự sống tinh thần của con người.
Câu 1. Theo bài viết, hiện tượng tiếc thương sinh thái là nỗi đau khổ trước những mất mát về sinh thái mà con người đã trải qua hoặc lo sợ sẽ xảy ra trong tương lai, do biến đổi khí hậu gây ra, với mức độ ảnh hưởng tâm lí giống như mất người thân.
Câu 2. Bài viết trình bày thông tin theo trình tự: giới thiệu hiện tượng -> định nghĩa và dẫn nguồn khoa học -> nêu ví dụ cụ thể -> mở rộng phạm vi ảnh hưởng -> nêu kết quả khảo sát.
Câu 3. Tác giả sử dụng các bằng chứng như: công trình của hai nhà khoa học Ashlee Cunsolo và Neville R. Ellis (2018), chia sẻ từ cộng đồng Inuit và người làm nông ở Australia, phản ứng của các tộc người bản địa khi rừng Amazon cháy (2019), và kết quả khảo sát của Caroline Hickman năm 2021.
Câu 4. Tác giả tiếp cận vấn đề biến đổi khí hậu từ góc độ tâm lí và nhân văn, không chỉ phản ánh tác động vật chất mà nhấn mạnh ảnh hưởng sâu sắc đến tinh thần, đặc biệt là những cộng đồng gắn bó chặt chẽ với thiên nhiên.
Câu 5. Thông điệp sâu sắc nhất là: Biến đổi khí hậu không chỉ là thảm họa môi trường, mà còn là khủng hoảng tâm lí và văn hoá, ảnh hưởng sâu sắc đến bản sắc và sự sống tinh thần của con người.
Câu 1.
Bảo vệ môi trường là một trong những nhiệm vụ cấp thiết và quan trọng nhất của nhân loại trong thế kỷ XXI. Môi trường không chỉ là nơi cung cấp nguồn sống mà còn là không gian tinh thần, văn hóa gắn bó mật thiết với con người. Khi môi trường bị hủy hoại, con người không chỉ đối mặt với thiên tai, dịch bệnh mà còn chịu tổn thương về tinh thần, như hiện tượng “tiếc thương sinh thái” mà bài viết đã nêu. Việc bảo vệ môi trường không chỉ là hành động giữ gìn tài nguyên mà còn là giữ lấy sự sống và tương lai bền vững cho các thế hệ mai sau. Mỗi hành động nhỏ như trồng cây, tiết kiệm nước, hạn chế rác thải nhựa, sử dụng năng lượng sạch… đều góp phần làm chậm quá trình biến đổi khí hậu. Bên cạnh đó, bảo vệ môi trường còn là cách thể hiện trách nhiệm, đạo đức và tình yêu của con người đối với thiên nhiên – người bạn đồng hành không thể thiếu. Chỉ khi con người sống hài hòa với thiên nhiên, chúng ta mới có thể đạt được một cuộc sống bền vững, hạnh phúc và trọn vẹn.
Câu 2.
Trong văn học trung đại Việt Nam, hình tượng người ẩn sĩ là biểu tượng tiêu biểu cho lối sống thanh cao, thoát tục, xa lánh danh lợi để tìm về với thiên nhiên và cốt cách đạo đức. Qua hai bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm và bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, hình tượng này hiện lên với những sắc thái riêng nhưng đều toát lên vẻ đẹp của tâm hồn cao quý, chan hòa cùng đất trời.
Trong bài “Nhàn”, Nguyễn Bỉnh Khiêm khắc họa một người ẩn sĩ tự nguyện rời xa chốn “lao xao”, ẩn mình nơi “vắng vẻ” để sống cuộc đời giản dị và tự tại. Hình ảnh “một mai, một cuốc, một cần câu” gợi nên một lối sống gần gũi với lao động và thiên nhiên. Cái “nhàn” ở đây không chỉ là thảnh thơi về thể xác, mà còn là sự thanh thản trong tâm hồn khi không bị vướng bận bởi phú quý phù hoa – những thứ mà ông xem là “tựa chiêm bao”. Với nhà thơ, sự nhàn tản gắn liền với triết lí sống an nhiên, coi thường danh lợi, hướng tới sự minh triết và tỉnh thức.
Còn trong bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, hình tượng người ẩn sĩ hiện lên giữa khung cảnh mùa thu thanh vắng, yên bình. Những hình ảnh như “trời thu xanh ngắt”, “cần trúc lơ phơ”, “bóng trăng vào”… tạo nên một không gian nên thơ, tĩnh tại. Người ẩn sĩ không chỉ sống giữa thiên nhiên mà còn hòa làm một với thiên nhiên, lắng nghe từng âm thanh, cảm nhận từng sắc màu. Tuy nhiên, ẩn sâu trong khung cảnh yên ả ấy là một tâm hồn nghệ sĩ đầy trăn trở. Câu cuối “Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào” thể hiện sự tự vấn, khiêm nhường trước bậc danh sĩ xưa, đồng thời cho thấy người ẩn sĩ ấy dù rời xa chính trường nhưng vẫn canh cánh nỗi lòng với đời, với văn chương.
Cả hai bài thơ đều cho thấy vẻ đẹp của hình tượng người ẩn sĩ: sống hòa hợp với thiên nhiên, buông bỏ danh lợi, giữ cho mình một tâm hồn thanh cao và tự tại. Tuy nhiên, nếu Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện sự nhàn nhã mang tính triết lí, quyết liệt rời bỏ chốn bon chen, thì Nguyễn Khuyến lại biểu hiện sự hòa mình sâu lắng, đôi khi xen lẫn nỗi buồn thời thế. Dù ở góc nhìn nào, người ẩn sĩ vẫn là biểu tượng của nhân cách cao đẹp, vượt lên những cám dỗ thường tình để sống đúng với bản ngã thanh sạch của mình.
Từ hai hình tượng ấy, người đọc hôm nay có thể học được bài học sâu sắc về lối sống thanh đạm, biết hài lòng với hiện tại và giữ gìn những giá trị chân - thiện - mỹ trong một thế giới đang ngày càng xô bồ và thực dụng
Câu 1.
Bảo vệ môi trường là một trong những nhiệm vụ cấp thiết và quan trọng nhất của nhân loại trong thế kỷ XXI. Môi trường không chỉ là nơi cung cấp nguồn sống mà còn là không gian tinh thần, văn hóa gắn bó mật thiết với con người. Khi môi trường bị hủy hoại, con người không chỉ đối mặt với thiên tai, dịch bệnh mà còn chịu tổn thương về tinh thần, như hiện tượng “tiếc thương sinh thái” mà bài viết đã nêu. Việc bảo vệ môi trường không chỉ là hành động giữ gìn tài nguyên mà còn là giữ lấy sự sống và tương lai bền vững cho các thế hệ mai sau. Mỗi hành động nhỏ như trồng cây, tiết kiệm nước, hạn chế rác thải nhựa, sử dụng năng lượng sạch… đều góp phần làm chậm quá trình biến đổi khí hậu. Bên cạnh đó, bảo vệ môi trường còn là cách thể hiện trách nhiệm, đạo đức và tình yêu của con người đối với thiên nhiên – người bạn đồng hành không thể thiếu. Chỉ khi con người sống hài hòa với thiên nhiên, chúng ta mới có thể đạt được một cuộc sống bền vững, hạnh phúc và trọn vẹn.
Câu 2.
Trong văn học trung đại Việt Nam, hình tượng người ẩn sĩ là biểu tượng tiêu biểu cho lối sống thanh cao, thoát tục, xa lánh danh lợi để tìm về với thiên nhiên và cốt cách đạo đức. Qua hai bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm và bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, hình tượng này hiện lên với những sắc thái riêng nhưng đều toát lên vẻ đẹp của tâm hồn cao quý, chan hòa cùng đất trời.
Trong bài “Nhàn”, Nguyễn Bỉnh Khiêm khắc họa một người ẩn sĩ tự nguyện rời xa chốn “lao xao”, ẩn mình nơi “vắng vẻ” để sống cuộc đời giản dị và tự tại. Hình ảnh “một mai, một cuốc, một cần câu” gợi nên một lối sống gần gũi với lao động và thiên nhiên. Cái “nhàn” ở đây không chỉ là thảnh thơi về thể xác, mà còn là sự thanh thản trong tâm hồn khi không bị vướng bận bởi phú quý phù hoa – những thứ mà ông xem là “tựa chiêm bao”. Với nhà thơ, sự nhàn tản gắn liền với triết lí sống an nhiên, coi thường danh lợi, hướng tới sự minh triết và tỉnh thức.
Còn trong bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, hình tượng người ẩn sĩ hiện lên giữa khung cảnh mùa thu thanh vắng, yên bình. Những hình ảnh như “trời thu xanh ngắt”, “cần trúc lơ phơ”, “bóng trăng vào”… tạo nên một không gian nên thơ, tĩnh tại. Người ẩn sĩ không chỉ sống giữa thiên nhiên mà còn hòa làm một với thiên nhiên, lắng nghe từng âm thanh, cảm nhận từng sắc màu. Tuy nhiên, ẩn sâu trong khung cảnh yên ả ấy là một tâm hồn nghệ sĩ đầy trăn trở. Câu cuối “Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào” thể hiện sự tự vấn, khiêm nhường trước bậc danh sĩ xưa, đồng thời cho thấy người ẩn sĩ ấy dù rời xa chính trường nhưng vẫn canh cánh nỗi lòng với đời, với văn chương.
Cả hai bài thơ đều cho thấy vẻ đẹp của hình tượng người ẩn sĩ: sống hòa hợp với thiên nhiên, buông bỏ danh lợi, giữ cho mình một tâm hồn thanh cao và tự tại. Tuy nhiên, nếu Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện sự nhàn nhã mang tính triết lí, quyết liệt rời bỏ chốn bon chen, thì Nguyễn Khuyến lại biểu hiện sự hòa mình sâu lắng, đôi khi xen lẫn nỗi buồn thời thế. Dù ở góc nhìn nào, người ẩn sĩ vẫn là biểu tượng của nhân cách cao đẹp, vượt lên những cám dỗ thường tình để sống đúng với bản ngã thanh sạch của mình.
Từ hai hình tượng ấy, người đọc hôm nay có thể học được bài học sâu sắc về lối sống thanh đạm, biết hài lòng với hiện tại và giữ gìn những giá trị chân - thiện - mỹ trong một thế giới đang ngày càng xô bồ và thực dụng
Câu 1:
Yêu thương vạn vật là một trong những biểu hiện cao đẹp của lòng nhân ái và sự trân trọng đối với thế giới xung quanh. Mỗi sự vật, dù lớn lao hay nhỏ bé, đều mang trong mình một giá trị riêng, góp phần tạo nên sự hài hòa của cuộc sống. Biết yêu thương vạn vật là biết trân trọng thiên nhiên, chăm sóc cây cối, bảo vệ môi trường và đối xử tử tế với muôn loài. Đó cũng là cách con người gìn giữ những giá trị văn hóa, nghệ thuật và những kỷ niệm gắn liền với quê hương, cội nguồn. Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại, không ít người chỉ mải chạy theo lợi ích cá nhân mà vô tâm tàn phá môi trường, ngược đãi động vật hay thờ ơ với những giá trị tinh thần truyền thống. Điều đó không chỉ khiến thiên nhiên bị hủy hoại mà còn làm tâm hồn con người trở nên chai sạn. Vì vậy, mỗi người cần học cách sống chậm lại, quan sát và thấu hiểu những điều giản dị quanh mình. Khi biết yêu thương vạn vật, con người sẽ sống ý nghĩa hơn, tâm hồn cũng trở nên thanh thản và giàu có hơn.
Câu 2:
Hoàng Cầm là một nhà thơ tiêu biểu của nền văn học kháng chiến chống Pháp. Bài thơ Bên kia sông Đuống được sáng tác năm 1948, thể hiện nỗi đau xót, căm thù trước cảnh quê hương bị giặc Pháp giày xéo. Đoạn thơ trích dẫn đã khắc họa rõ nét sự đối lập giữa vẻ đẹp thanh bình của quê hương trước chiến tranh và cảnh tượng tan hoang khi giặc tràn đến.
Mở đầu đoạn thơ, tác giả gợi lên hình ảnh một vùng quê yên bình, no ấm:
Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Câu thơ mở ra một không gian đầy hương vị của miền quê Bắc Bộ, nơi có những cánh đồng lúa nếp chín vàng, tỏa hương thơm ngào ngạt. Đây không chỉ là một bức tranh thiên nhiên trù phú mà còn là biểu tượng cho sự no đủ, bình yên của cuộc sống người dân.
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Hình ảnh tranh Đông Hồ với những nét vẽ mộc mạc, màu sắc rực rỡ không chỉ tái hiện vẻ đẹp văn hóa dân gian mà còn thể hiện niềm tự hào của tác giả về truyền thống dân tộc. Cách diễn đạt “màu dân tộc sáng bừng” nhấn mạnh sự rực rỡ, bền vững của bản sắc quê hương.
Khung cảnh thanh bình nhanh chóng bị phá vỡ khi chiến tranh ập đến:
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Hai câu thơ với những từ ngữ mạnh như “khủng khiếp”, “ngùn ngụt lửa hung tàn” đã lột tả sự tàn bạo của kẻ thù. Lửa chiến tranh không chỉ thiêu rụi nhà cửa, ruộng đồng mà còn cướp đi sự sống, niềm vui và bình yên của người dân.
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Những câu thơ ngắn, nhịp dồn dập, gợi lên cảnh quê hương bị hủy hoại. Ruộng đồng từng xanh mướt nay cằn cỗi, nhà cửa từng ấm áp nay chỉ còn là tro tàn.
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Hình ảnh đàn chó với “lưỡi dài lê sắc máu” mang tính biểu tượng cao, thể hiện sự hoang tàn, chết chóc mà chiến tranh mang đến. Đàn chó vốn gắn liền với cuộc sống làng quê nay trở thành những kẻ săn lùng xác chết, phản ánh nỗi kinh hoàng của chiến tranh.
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Cảnh quê hương không chỉ bị tàn phá về vật chất mà còn trở nên hoang vu, tiêu điều. “Ngõ thẳm bờ hoang” gợi lên sự vắng vẻ, lạnh lẽo, không còn bóng dáng của sự sống.
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa trăm ngả
Bức tranh Đàn lợn âm dương vốn là biểu tượng cho sự sung túc, sinh sôi nay bị chia lìa, tan tác. Đây không chỉ là sự hủy hoại văn hóa mà còn là hình ảnh ẩn dụ cho những gia đình ly tán, mất mát trong chiến tranh.
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu?
Bức tranh Đám cưới chuột từng tượng trưng cho niềm vui, sự hóm hỉnh của làng quê, giờ đây cũng không còn nguyên vẹn. Câu hỏi tu từ “Bây giờ tan tác về đâu?” vang lên như một lời than thở, một nỗi đau xót khi quê hương bị tàn phá.
Hoàng Cầm đã sử dụng biện pháp đối lập giữa cảnh quê hương trước và sau chiến tranh để làm nổi bật nỗi đau mất mát. Hình ảnh thơ giàu tính biểu tượng, kết hợp giữa tả thực và ẩn dụ, tạo nên sức gợi mạnh mẽ. Nhịp thơ linh hoạt, lúc êm đềm khi dồn dập, góp phần thể hiện sự biến đổi dữ dội của quê hương.
Đoạn thơ không chỉ phản ánh sự tàn phá nặng nề của chiến tranh mà còn thể hiện tình yêu tha thiết của tác giả với quê hương. Đó là nỗi xót xa, đau đớn khi chứng kiến những giá trị văn hóa, truyền thống bị hủy hoại, đồng thời là lời kêu gọi tinh thần đấu tranh, bảo vệ quê hương.
Qua đoạn thơ, Hoàng Cầm đã tái hiện sự đối lập rõ nét giữa một quê hương tươi đẹp, thanh bình trước chiến tranh và một vùng đất hoang tàn, đau thương sau khi giặc xâm lược. Bài thơ không chỉ là tiếng lòng của một người con yêu nước mà còn là lời nhắc nhở sâu sắc về giá trị của hòa bình, tinh thần gìn giữ và bảo vệ quê hương, đất nước.
Câu 1:
Phương thức biểu đạt chính trong văn bản là nghị luận.
Câu 2:
Văn bản thể hiện sự trăn trở về cách con người đối xử với thế giới xung quanh, từ thiên nhiên đến con người, thường xuyên gây tổn thương mà không nhận ra. Tác giả kêu gọi sự trân trọng, nâng niu cuộc sống và thức tỉnh con người về ý thức trách nhiệm của mình.
Câu 3:
Một biện pháp tu từ trong đoạn (7) là liệt kê:
• Mặt đất ngàn đời quen tha thứ. Đại dương bao la quen độ lượng. Cánh rừng mênh mông quen trầm mặc. Những dòng sông quen chảy xuôi. Những hồ đầm quen nín lặng. Những nẻo đường quen nhẫn nhịn…
• Việc liệt kê hàng loạt hình ảnh của thiên nhiên với những phẩm chất như tha thứ, độ lượng, trầm mặc… giúp nhấn mạnh sự bao dung của thế giới tự nhiên. Qua đó, tác giả khơi gợi suy nghĩ và trách nhiệm của con người trước những gì họ đã vô tình làm tổn thương.
Câu 4:
Tác giả nói “Thỉnh thoảng bàn chân nên bị gai đâm” để nhấn mạnh rằng con người cần có những khoảnh khắc giật mình, tỉnh thức khi gây tổn thương đến thiên nhiên và cuộc sống xung quanh. Chỉ khi nếm trải nỗi đau, con người mới có thể hiểu và trân trọng hơn những gì đang tồn tại, từ đó điều chỉnh hành động, sống nhân văn và ý thức hơn.
Câu 5:
Bài học ý nghĩa nhất từ văn bản là hãy sống trân trọng, nâng niu thế giới xung quanh. Thiên nhiên và con người luôn âm thầm chịu đựng những tổn thương mà ta vô tình gây ra. Vì vậy, mỗi người cần sống ý thức hơn, bớt vô tâm, biết yêu thương và đối xử tử tế với môi trường cũng như những người xung quanh