Đoàn Xuân Quý

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Đoàn Xuân Quý
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

Ta có hệ phương trình: \frac{x}{5} = \frac{y}{11} \quad \text{(1)} \\ x + y = 32 \quad \text{(2)} \frac{x}{5} = \frac{y}{11} \Rightarrow 11x = 5y \Rightarrow x = \frac{5y}{11} x + y = 32 \Rightarrow \frac{5y}{11} + y = 32 \frac{5y + 11y}{11} = 32 \Rightarrow \frac{16y}{11} = 32 \Rightarrow 16y = 352 \Rightarrow y = \frac{352}{16} = 22 x = 32 - y = 32 - 22 = 10

Ta có hệ phương trình: \frac{x}{5} = \frac{y}{11} \quad \text{(1)} \\ x + y = 32 \quad \text{(2)} \frac{x}{5} = \frac{y}{11} \Rightarrow 11x = 5y \Rightarrow x = \frac{5y}{11} x + y = 32 \Rightarrow \frac{5y}{11} + y = 32 \frac{5y + 11y}{11} = 32 \Rightarrow \frac{16y}{11} = 32 \Rightarrow 16y = 352 \Rightarrow y = \frac{352}{16} = 22 x = 32 - y = 32 - 22 = 10

Câu 1:

Bài làm

Môi trường là nền tảng của sự sống, là nơi con người và các loài sinh vật tồn tại và phát triển. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu đang diễn biến ngày càng nghiêm trọng, việc bảo vệ môi trường không chỉ là hành động mang tính đạo đức mà còn là nhu cầu sống còn của nhân loại. Môi trường bị huỷ hoại kéo theo nhiều hệ lụy nghiêm trọng như thiên tai, dịch bệnh, ô nhiễm không khí, nguồn nước cạn kiệt,… ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và đời sống con người. Đặc biệt, như bài viết “Tiếc thương sinh thái” đã chỉ ra, sự mất mát về sinh thái còn gây tổn thương sâu sắc đến tinh thần con người, khiến nhiều cộng đồng lâm vào khủng hoảng tâm lý. Vì vậy, mỗi cá nhân cần ý thức rõ vai trò của mình trong việc gìn giữ môi trường: giảm rác thải nhựa, sử dụng năng lượng tái tạo, sống xanh và lan tỏa lối sống bền vững. Bảo vệ môi trường chính là bảo vệ tương lai, không chỉ cho bản thân ta hôm nay mà còn cho các thế hệ mai sau.

Câu 2 :

Bài làm

Trong bài “Nhàn”, Nguyễn Bỉnh Khiêm khắc họa hình tượng ẩn sĩ với lối sống thanh đạm, gần gũi thiên nhiên, đầy chủ động và triết lí. Câu thơ “Một mai, một cuốc, một cần câu” gợi nên cuộc sống điền dã, tự cung tự cấp, tự tại giữa thiên nhiên. Ông chọn "nơi vắng vẻ" để tránh xa "chốn lao xao" – nơi danh lợi, bon chen.

Cuộc sống ẩn dật được thể hiện rất phong phú: ăn uống theo mùa ("thu ăn măng trúc, đông ăn giá"), tắm gội thiên nhiên ("xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao"), uống rượu dưới bóng cây và xem phú quý như "chiêm bao". Người ẩn sĩ hiện lên với tâm thế ung dung, tự tại, sống thuận theo tự nhiên và giữ mình trong sạch giữa dòng đời đầy cám dỗ. Đó là vẻ đẹp của một bậc trí giả hiểu đạo lý, sống hòa hợp với thiên nhiên và vượt lên trên danh lợi thường tình. Trong khi đó, bài thơ thu cảnh của Nguyễn Khuyến (bài thơ thứ nhất trong chùm ba bài Thu nổi tiếng) cũng thể hiện hình tượng người ẩn sĩ, nhưng lại thiên về sự cảm nhận thiên nhiên bằng tâm hồn nhạy cảm và sâu lắng. Cảnh thu hiện lên nhẹ nhàng, thanh thoát: trời thu “xanh ngắt”, gió “hắt hiu”, “bóng trăng” lặng lẽ qua “song thưa”, “hoa năm ngoái” rụng còn vương trước giậu… Cảnh vật vắng vẻ, tĩnh lặng, như phản chiếu một tâm hồn cũng đang lặng lẽ, thanh thản. Dù có “nhân hứng” muốn “cất bút” làm thơ, nhưng tác giả lại dừng lại với một nụ cười tự trào: “Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào” – người xưa đã từng sống ẩn dật tài hoa, còn mình thì chưa chắc sánh được. Qua đó, Nguyễn Khuyến thể hiện một cái tôi khiêm nhường, sâu sắc, đồng thời bộc lộ tâm thế của một người trí thức ẩn cư vì thời cuộc, sống gắn bó với thiên nhiên nhưng vẫn canh cánh nỗi niềm.

Như vậy, cả hai bài thơ đều xây dựng hình tượng người ẩn sĩ gắn bó với thiên nhiên, tránh xa danh lợi, coi thường phú quý. Tuy nhiên, nếu Nguyễn Bỉnh Khiêm hiện lên như một nhà hiền triết an nhiên, có lựa chọn sống rõ ràng, thì Nguyễn Khuyến lại là một ẩn sĩ mang vẻ đằm sâu, trầm lặng, vừa tận hưởng thiên nhiên vừa mang nỗi ưu tư kín đáo.



Câu 1:

Bài làm

Môi trường là nền tảng của sự sống, là nơi con người và các loài sinh vật tồn tại và phát triển. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu đang diễn biến ngày càng nghiêm trọng, việc bảo vệ môi trường không chỉ là hành động mang tính đạo đức mà còn là nhu cầu sống còn của nhân loại. Môi trường bị huỷ hoại kéo theo nhiều hệ lụy nghiêm trọng như thiên tai, dịch bệnh, ô nhiễm không khí, nguồn nước cạn kiệt,… ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và đời sống con người. Đặc biệt, như bài viết “Tiếc thương sinh thái” đã chỉ ra, sự mất mát về sinh thái còn gây tổn thương sâu sắc đến tinh thần con người, khiến nhiều cộng đồng lâm vào khủng hoảng tâm lý. Vì vậy, mỗi cá nhân cần ý thức rõ vai trò của mình trong việc gìn giữ môi trường: giảm rác thải nhựa, sử dụng năng lượng tái tạo, sống xanh và lan tỏa lối sống bền vững. Bảo vệ môi trường chính là bảo vệ tương lai, không chỉ cho bản thân ta hôm nay mà còn cho các thế hệ mai sau.

Câu 2 :

Bài làm

Trong bài “Nhàn”, Nguyễn Bỉnh Khiêm khắc họa hình tượng ẩn sĩ với lối sống thanh đạm, gần gũi thiên nhiên, đầy chủ động và triết lí. Câu thơ “Một mai, một cuốc, một cần câu” gợi nên cuộc sống điền dã, tự cung tự cấp, tự tại giữa thiên nhiên. Ông chọn "nơi vắng vẻ" để tránh xa "chốn lao xao" – nơi danh lợi, bon chen.

Cuộc sống ẩn dật được thể hiện rất phong phú: ăn uống theo mùa ("thu ăn măng trúc, đông ăn giá"), tắm gội thiên nhiên ("xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao"), uống rượu dưới bóng cây và xem phú quý như "chiêm bao". Người ẩn sĩ hiện lên với tâm thế ung dung, tự tại, sống thuận theo tự nhiên và giữ mình trong sạch giữa dòng đời đầy cám dỗ. Đó là vẻ đẹp của một bậc trí giả hiểu đạo lý, sống hòa hợp với thiên nhiên và vượt lên trên danh lợi thường tình. Trong khi đó, bài thơ thu cảnh của Nguyễn Khuyến (bài thơ thứ nhất trong chùm ba bài Thu nổi tiếng) cũng thể hiện hình tượng người ẩn sĩ, nhưng lại thiên về sự cảm nhận thiên nhiên bằng tâm hồn nhạy cảm và sâu lắng. Cảnh thu hiện lên nhẹ nhàng, thanh thoát: trời thu “xanh ngắt”, gió “hắt hiu”, “bóng trăng” lặng lẽ qua “song thưa”, “hoa năm ngoái” rụng còn vương trước giậu… Cảnh vật vắng vẻ, tĩnh lặng, như phản chiếu một tâm hồn cũng đang lặng lẽ, thanh thản. Dù có “nhân hứng” muốn “cất bút” làm thơ, nhưng tác giả lại dừng lại với một nụ cười tự trào: “Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào” – người xưa đã từng sống ẩn dật tài hoa, còn mình thì chưa chắc sánh được. Qua đó, Nguyễn Khuyến thể hiện một cái tôi khiêm nhường, sâu sắc, đồng thời bộc lộ tâm thế của một người trí thức ẩn cư vì thời cuộc, sống gắn bó với thiên nhiên nhưng vẫn canh cánh nỗi niềm.

Như vậy, cả hai bài thơ đều xây dựng hình tượng người ẩn sĩ gắn bó với thiên nhiên, tránh xa danh lợi, coi thường phú quý. Tuy nhiên, nếu Nguyễn Bỉnh Khiêm hiện lên như một nhà hiền triết an nhiên, có lựa chọn sống rõ ràng, thì Nguyễn Khuyến lại là một ẩn sĩ mang vẻ đằm sâu, trầm lặng, vừa tận hưởng thiên nhiên vừa mang nỗi ưu tư kín đáo.



Chủ nhật tuần trước,mẹ em cho em đi công viên chơi.Em nhìn thấy một số bạn vứt rác bừa bãi không đúng nơi quy định.Em đã nhặt rác đó bỏ vào thùng rác giúp cho công viên sạch sẽ hơn.Em cảm thấy rất vui khi đã làm cho môi trường xanh , sạch, đẹp.

a) Biến cố \(A\) là biến cố ngẫu nhiên, biến cố \(B\) là biến cố chắc chắn, biến cố \(C\) là biến cố không thể.

b) Xác suất của biến cố \(A\) là: \(\frac{3}{6} = \frac{1}{2}\).

Ta có hệ phương trình: \frac{x}{5} = \frac{y}{11} \quad \text{(1)} \\ x + y = 32 \quad \text{(2)} \frac{x}{5} = \frac{y}{11} \Rightarrow 11x = 5y \Rightarrow x = \frac{5y}{11} x + y = 32 \Rightarrow \frac{5y}{11} + y = 32 \frac{5y + 11y}{11} = 32 \Rightarrow \frac{16y}{11} = 32 \Rightarrow 16y = 352 \Rightarrow y = \frac{352}{16} = 22 x = 32 - y = 32 - 22 = 10

Câu 1:

Bài làm

Môi trường là nền tảng của sự sống, là nơi con người và các loài sinh vật tồn tại và phát triển. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu đang diễn biến ngày càng nghiêm trọng, việc bảo vệ môi trường không chỉ là hành động mang tính đạo đức mà còn là nhu cầu sống còn của nhân loại. Môi trường bị huỷ hoại kéo theo nhiều hệ lụy nghiêm trọng như thiên tai, dịch bệnh, ô nhiễm không khí, nguồn nước cạn kiệt,… ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và đời sống con người. Đặc biệt, như bài viết “Tiếc thương sinh thái” đã chỉ ra, sự mất mát về sinh thái còn gây tổn thương sâu sắc đến tinh thần con người, khiến nhiều cộng đồng lâm vào khủng hoảng tâm lý. Vì vậy, mỗi cá nhân cần ý thức rõ vai trò của mình trong việc gìn giữ môi trường: giảm rác thải nhựa, sử dụng năng lượng tái tạo, sống xanh và lan tỏa lối sống bền vững. Bảo vệ môi trường chính là bảo vệ tương lai, không chỉ cho bản thân ta hôm nay mà còn cho các thế hệ mai sau.

Câu 2 :

Bài làm

Trong bài “Nhàn”, Nguyễn Bỉnh Khiêm khắc họa hình tượng ẩn sĩ với lối sống thanh đạm, gần gũi thiên nhiên, đầy chủ động và triết lí. Câu thơ “Một mai, một cuốc, một cần câu” gợi nên cuộc sống điền dã, tự cung tự cấp, tự tại giữa thiên nhiên. Ông chọn "nơi vắng vẻ" để tránh xa "chốn lao xao" – nơi danh lợi, bon chen.

Cuộc sống ẩn dật được thể hiện rất phong phú: ăn uống theo mùa ("thu ăn măng trúc, đông ăn giá"), tắm gội thiên nhiên ("xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao"), uống rượu dưới bóng cây và xem phú quý như "chiêm bao". Người ẩn sĩ hiện lên với tâm thế ung dung, tự tại, sống thuận theo tự nhiên và giữ mình trong sạch giữa dòng đời đầy cám dỗ. Đó là vẻ đẹp của một bậc trí giả hiểu đạo lý, sống hòa hợp với thiên nhiên và vượt lên trên danh lợi thường tình. Trong khi đó, bài thơ thu cảnh của Nguyễn Khuyến (bài thơ thứ nhất trong chùm ba bài Thu nổi tiếng) cũng thể hiện hình tượng người ẩn sĩ, nhưng lại thiên về sự cảm nhận thiên nhiên bằng tâm hồn nhạy cảm và sâu lắng. Cảnh thu hiện lên nhẹ nhàng, thanh thoát: trời thu “xanh ngắt”, gió “hắt hiu”, “bóng trăng” lặng lẽ qua “song thưa”, “hoa năm ngoái” rụng còn vương trước giậu… Cảnh vật vắng vẻ, tĩnh lặng, như phản chiếu một tâm hồn cũng đang lặng lẽ, thanh thản. Dù có “nhân hứng” muốn “cất bút” làm thơ, nhưng tác giả lại dừng lại với một nụ cười tự trào: “Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào” – người xưa đã từng sống ẩn dật tài hoa, còn mình thì chưa chắc sánh được. Qua đó, Nguyễn Khuyến thể hiện một cái tôi khiêm nhường, sâu sắc, đồng thời bộc lộ tâm thế của một người trí thức ẩn cư vì thời cuộc, sống gắn bó với thiên nhiên nhưng vẫn canh cánh nỗi niềm.

Như vậy, cả hai bài thơ đều xây dựng hình tượng người ẩn sĩ gắn bó với thiên nhiên, tránh xa danh lợi, coi thường phú quý. Tuy nhiên, nếu Nguyễn Bỉnh Khiêm hiện lên như một nhà hiền triết an nhiên, có lựa chọn sống rõ ràng, thì Nguyễn Khuyến lại là một ẩn sĩ mang vẻ đằm sâu, trầm lặng, vừa tận hưởng thiên nhiên vừa mang nỗi ưu tư kín đáo.



a) Biến cố \(A\) là biến cố ngẫu nhiên, biến cố \(B\) là biến cố chắc chắn, biến cố \(C\) là biến cố không thể.

b) Xác suất của biến cố \(A\) là: \(\frac{3}{6} = \frac{1}{2}\).

Câu 1:

Bài làm

Môi trường là nền tảng của sự sống, là nơi con người và các loài sinh vật tồn tại và phát triển. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu đang diễn biến ngày càng nghiêm trọng, việc bảo vệ môi trường không chỉ là hành động mang tính đạo đức mà còn là nhu cầu sống còn của nhân loại. Môi trường bị huỷ hoại kéo theo nhiều hệ lụy nghiêm trọng như thiên tai, dịch bệnh, ô nhiễm không khí, nguồn nước cạn kiệt,… ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và đời sống con người. Đặc biệt, như bài viết “Tiếc thương sinh thái” đã chỉ ra, sự mất mát về sinh thái còn gây tổn thương sâu sắc đến tinh thần con người, khiến nhiều cộng đồng lâm vào khủng hoảng tâm lý. Vì vậy, mỗi cá nhân cần ý thức rõ vai trò của mình trong việc gìn giữ môi trường: giảm rác thải nhựa, sử dụng năng lượng tái tạo, sống xanh và lan tỏa lối sống bền vững. Bảo vệ môi trường chính là bảo vệ tương lai, không chỉ cho bản thân ta hôm nay mà còn cho các thế hệ mai sau.

Câu 2 :

Bài làm

Trong bài “Nhàn”, Nguyễn Bỉnh Khiêm khắc họa hình tượng ẩn sĩ với lối sống thanh đạm, gần gũi thiên nhiên, đầy chủ động và triết lí. Câu thơ “Một mai, một cuốc, một cần câu” gợi nên cuộc sống điền dã, tự cung tự cấp, tự tại giữa thiên nhiên. Ông chọn "nơi vắng vẻ" để tránh xa "chốn lao xao" – nơi danh lợi, bon chen.

Cuộc sống ẩn dật được thể hiện rất phong phú: ăn uống theo mùa ("thu ăn măng trúc, đông ăn giá"), tắm gội thiên nhiên ("xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao"), uống rượu dưới bóng cây và xem phú quý như "chiêm bao". Người ẩn sĩ hiện lên với tâm thế ung dung, tự tại, sống thuận theo tự nhiên và giữ mình trong sạch giữa dòng đời đầy cám dỗ. Đó là vẻ đẹp của một bậc trí giả hiểu đạo lý, sống hòa hợp với thiên nhiên và vượt lên trên danh lợi thường tình. Trong khi đó, bài thơ thu cảnh của Nguyễn Khuyến (bài thơ thứ nhất trong chùm ba bài Thu nổi tiếng) cũng thể hiện hình tượng người ẩn sĩ, nhưng lại thiên về sự cảm nhận thiên nhiên bằng tâm hồn nhạy cảm và sâu lắng. Cảnh thu hiện lên nhẹ nhàng, thanh thoát: trời thu “xanh ngắt”, gió “hắt hiu”, “bóng trăng” lặng lẽ qua “song thưa”, “hoa năm ngoái” rụng còn vương trước giậu… Cảnh vật vắng vẻ, tĩnh lặng, như phản chiếu một tâm hồn cũng đang lặng lẽ, thanh thản. Dù có “nhân hứng” muốn “cất bút” làm thơ, nhưng tác giả lại dừng lại với một nụ cười tự trào: “Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào” – người xưa đã từng sống ẩn dật tài hoa, còn mình thì chưa chắc sánh được. Qua đó, Nguyễn Khuyến thể hiện một cái tôi khiêm nhường, sâu sắc, đồng thời bộc lộ tâm thế của một người trí thức ẩn cư vì thời cuộc, sống gắn bó với thiên nhiên nhưng vẫn canh cánh nỗi niềm.

Như vậy, cả hai bài thơ đều xây dựng hình tượng người ẩn sĩ gắn bó với thiên nhiên, tránh xa danh lợi, coi thường phú quý. Tuy nhiên, nếu Nguyễn Bỉnh Khiêm hiện lên như một nhà hiền triết an nhiên, có lựa chọn sống rõ ràng, thì Nguyễn Khuyến lại là một ẩn sĩ mang vẻ đằm sâu, trầm lặng, vừa tận hưởng thiên nhiên vừa mang nỗi ưu tư kín đáo.