Lê Thị Ngọc Linh

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Lê Thị Ngọc Linh
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

Câu 1 (2.0 điểm): Viết đoạn văn khoảng 200 chữ về tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường


Môi trường là không gian sống thiết yếu của con người và mọi sinh vật trên Trái Đất, vì vậy, việc bảo vệ môi trường có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Môi trường trong lành không chỉ bảo đảm sức khỏe thể chất mà còn góp phần duy trì sự cân bằng tinh thần, cảm xúc của con người. Ngược lại, khi môi trường bị hủy hoại, con người không chỉ đối diện với bệnh tật, thiên tai, mà còn có thể rơi vào khủng hoảng tâm lý như hiện tượng “tiếc thương sinh thái” mà bài đọc hiểu đã chỉ ra. Nhiều người đã và đang chịu tổn thương sâu sắc vì chứng kiến cảnh thiên nhiên bị tàn phá, mất đi những giá trị văn hóa gắn bó lâu đời. Bảo vệ môi trường chính là bảo vệ sự sống, bản sắc và tương lai của loài người. Hành động này không chỉ là trách nhiệm mà còn là biểu hiện của tình yêu thương, ý thức nhân văn sâu sắc. Mỗi người, dù nhỏ bé, đều có thể góp phần bằng những việc làm thiết thực: trồng cây, tiết kiệm điện, không xả rác bừa bãi… để gìn giữ môi trường sống cho thế hệ hôm nay và mai sau.

Câu 2 (4.0 điểm): Bài văn nghị luận so sánh hình tượng người ẩn sĩ qua hai bài thơ

Trong dòng chảy của văn học trung đại Việt Nam, hình tượng người ẩn sĩ – những con người từ bỏ công danh, tìm đến cuộc sống thanh tịnh giữa thiên nhiên – luôn để lại dấu ấn sâu đậm. Họ không chỉ là biểu tượng cho tinh thần tự do, thanh cao mà còn là tiếng nói của lương tri, trí tuệ trong những thời điểm nhiễu nhương của lịch sử. Qua bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm và bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, hình tượng người ẩn sĩ hiện lên với những sắc thái riêng biệt, thể hiện quan điểm sống, tâm hồn và nhân cách của hai nhà thơ lớn.


Trong bài “Nhàn”, Nguyễn Bỉnh Khiêm khẳng định rõ ràng lối sống ẩn dật như một lựa chọn đầy chủ động và lý trí. Ông gọi đó là “ta dại”, đối lập với “người khôn” – một sự hoán đổi giá trị đầy bản lĩnh. Cuộc sống nhàn của ông không phải trốn chạy mà là một lối sống triết lý: “Một mai, một cuốc, một cần câu”, lấy lao động chân chính và thiên nhiên làm niềm vui. Ông ăn măng trúc mùa thu, ăn giá mùa đông, tắm hồ sen mùa xuân, tắm ao mùa hạ – những sinh hoạt hòa quyện với tự nhiên, biểu hiện sự an nhiên và tự tại. Câu thơ cuối “Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao” thể hiện thái độ coi thường danh lợi, một sự giác ngộ sâu sắc về lẽ đời vô thường. Hình ảnh người ẩn sĩ ở đây mang nét triết nhân, sống theo lẽ “thuận thiên”, giữ trọn khí tiết trong thời loạn.


Trong khi đó, bài thơ thu của Nguyễn Khuyến lại không trực tiếp nói đến “nhàn” hay “ẩn dật”, nhưng hình tượng người ẩn sĩ hiện lên qua cảnh thu tĩnh lặng, thanh sơ, thấm đượm vẻ đẹp tâm hồn. Cảnh vật – từ “trời thu xanh ngắt”, “cần trúc lơ phơ”, “nước biếc”, “song thưa”, đến “hoa năm ngoái”, “tiếng ngỗng trời” – đều nhẹ nhàng, gợi cảm giác cô tịch, tĩnh lặng. Người ẩn sĩ ở đây không tuyên ngôn, mà sống lặng lẽ giữa thiên nhiên, trong sự chiêm nghiệm sâu xa. Câu thơ cuối “Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào” thể hiện sự khiêm nhường, tự soi lại mình trước bậc ẩn sĩ xưa. Nếu Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện cái nhàn bằng lời khẳng định dứt khoát, thì Nguyễn Khuyến thể hiện cái nhàn bằng cảm xúc lắng sâu, qua khung cảnh và tâm thế giao hòa với trời đất.


Cả hai bài thơ đều thể hiện vẻ đẹp của người ẩn sĩ: sống giản dị, thanh cao, giữ mình trước cám dỗ danh lợi. Tuy nhiên, Nguyễn Bỉnh Khiêm mang đậm phong thái của một bậc triết nhân – sống nhàn là để giữ đạo lý và lý tưởng sống. Còn Nguyễn Khuyến lại là một thi nhân tài hoa, mang nỗi u hoài của người từng dấn thân nhưng thất vọng vì thời cuộc, nên chọn cách lui về với thiên nhiên, sống thanh đạm mà đầy suy tư.


Qua hình tượng người ẩn sĩ trong hai bài thơ, người đọc không chỉ thấy được vẻ đẹp nhân cách của các nhà thơ mà còn cảm nhận được một lối sống lý tưởng: thanh cao, hài hòa với thiên nhiên, tỉnh táo giữa những xáo trộn của xã hội. Đó là bài học về nhân sinh sâu sắc mà văn học trung đại để lại cho hậu thế.


Câu 1 (2.0 điểm): Viết đoạn văn khoảng 200 chữ về tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường


Môi trường là không gian sống thiết yếu của con người và mọi sinh vật trên Trái Đất, vì vậy, việc bảo vệ môi trường có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Môi trường trong lành không chỉ bảo đảm sức khỏe thể chất mà còn góp phần duy trì sự cân bằng tinh thần, cảm xúc của con người. Ngược lại, khi môi trường bị hủy hoại, con người không chỉ đối diện với bệnh tật, thiên tai, mà còn có thể rơi vào khủng hoảng tâm lý như hiện tượng “tiếc thương sinh thái” mà bài đọc hiểu đã chỉ ra. Nhiều người đã và đang chịu tổn thương sâu sắc vì chứng kiến cảnh thiên nhiên bị tàn phá, mất đi những giá trị văn hóa gắn bó lâu đời. Bảo vệ môi trường chính là bảo vệ sự sống, bản sắc và tương lai của loài người. Hành động này không chỉ là trách nhiệm mà còn là biểu hiện của tình yêu thương, ý thức nhân văn sâu sắc. Mỗi người, dù nhỏ bé, đều có thể góp phần bằng những việc làm thiết thực: trồng cây, tiết kiệm điện, không xả rác bừa bãi… để gìn giữ môi trường sống cho thế hệ hôm nay và mai sau.

Câu 2 (4.0 điểm): Bài văn nghị luận so sánh hình tượng người ẩn sĩ qua hai bài thơ

Trong dòng chảy của văn học trung đại Việt Nam, hình tượng người ẩn sĩ – những con người từ bỏ công danh, tìm đến cuộc sống thanh tịnh giữa thiên nhiên – luôn để lại dấu ấn sâu đậm. Họ không chỉ là biểu tượng cho tinh thần tự do, thanh cao mà còn là tiếng nói của lương tri, trí tuệ trong những thời điểm nhiễu nhương của lịch sử. Qua bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm và bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, hình tượng người ẩn sĩ hiện lên với những sắc thái riêng biệt, thể hiện quan điểm sống, tâm hồn và nhân cách của hai nhà thơ lớn.


Trong bài “Nhàn”, Nguyễn Bỉnh Khiêm khẳng định rõ ràng lối sống ẩn dật như một lựa chọn đầy chủ động và lý trí. Ông gọi đó là “ta dại”, đối lập với “người khôn” – một sự hoán đổi giá trị đầy bản lĩnh. Cuộc sống nhàn của ông không phải trốn chạy mà là một lối sống triết lý: “Một mai, một cuốc, một cần câu”, lấy lao động chân chính và thiên nhiên làm niềm vui. Ông ăn măng trúc mùa thu, ăn giá mùa đông, tắm hồ sen mùa xuân, tắm ao mùa hạ – những sinh hoạt hòa quyện với tự nhiên, biểu hiện sự an nhiên và tự tại. Câu thơ cuối “Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao” thể hiện thái độ coi thường danh lợi, một sự giác ngộ sâu sắc về lẽ đời vô thường. Hình ảnh người ẩn sĩ ở đây mang nét triết nhân, sống theo lẽ “thuận thiên”, giữ trọn khí tiết trong thời loạn.


Trong khi đó, bài thơ thu của Nguyễn Khuyến lại không trực tiếp nói đến “nhàn” hay “ẩn dật”, nhưng hình tượng người ẩn sĩ hiện lên qua cảnh thu tĩnh lặng, thanh sơ, thấm đượm vẻ đẹp tâm hồn. Cảnh vật – từ “trời thu xanh ngắt”, “cần trúc lơ phơ”, “nước biếc”, “song thưa”, đến “hoa năm ngoái”, “tiếng ngỗng trời” – đều nhẹ nhàng, gợi cảm giác cô tịch, tĩnh lặng. Người ẩn sĩ ở đây không tuyên ngôn, mà sống lặng lẽ giữa thiên nhiên, trong sự chiêm nghiệm sâu xa. Câu thơ cuối “Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào” thể hiện sự khiêm nhường, tự soi lại mình trước bậc ẩn sĩ xưa. Nếu Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện cái nhàn bằng lời khẳng định dứt khoát, thì Nguyễn Khuyến thể hiện cái nhàn bằng cảm xúc lắng sâu, qua khung cảnh và tâm thế giao hòa với trời đất.


Cả hai bài thơ đều thể hiện vẻ đẹp của người ẩn sĩ: sống giản dị, thanh cao, giữ mình trước cám dỗ danh lợi. Tuy nhiên, Nguyễn Bỉnh Khiêm mang đậm phong thái của một bậc triết nhân – sống nhàn là để giữ đạo lý và lý tưởng sống. Còn Nguyễn Khuyến lại là một thi nhân tài hoa, mang nỗi u hoài của người từng dấn thân nhưng thất vọng vì thời cuộc, nên chọn cách lui về với thiên nhiên, sống thanh đạm mà đầy suy tư.


Qua hình tượng người ẩn sĩ trong hai bài thơ, người đọc không chỉ thấy được vẻ đẹp nhân cách của các nhà thơ mà còn cảm nhận được một lối sống lý tưởng: thanh cao, hài hòa với thiên nhiên, tỉnh táo giữa những xáo trộn của xã hội. Đó là bài học về nhân sinh sâu sắc mà văn học trung đại để lại cho hậu thế.


Câu 1: (2 điểm) – Viết đoạn văn phân tích diễn biến tâm lý nhân vật ông giáo Thứ


Trong đoạn trích, diễn biến tâm lý của ông giáo Thứ được khắc họa chân thực và sâu sắc qua từng chi tiết. Ban đầu là sự hoảng hốt, bàng hoàng khi nhận ra cuộc đời mình cứ lặp đi lặp lại một cách vô nghĩa, tù túng và mòn mỏi. Từ đó, ông rơi vào bi kịch tâm lý – sự giằng xé giữa trách nhiệm và khát vọng cá nhân, giữa yêu thương và bất lực. Đặc biệt, khi ngồi ăn cơm một mình, tâm trạng của Thứ càng trở nên bế tắc. Ông nhận thấy mình như đang hưởng phần ăn “bất công” so với những người thân yêu đã chịu bao vất vả. Những dòng suy tư đầy xót xa, đau đớn đã khiến nước mắt ông trào ra – đó là biểu hiện của tình cảm gia đình sâu nặng, của một tấm lòng nhân hậu và sự tự vấn lương tâm. Qua diễn biến tâm lý này, ta thấy Thứ là người có trách nhiệm, giàu lòng trắc ẩn, luôn đau đáu vì người thân và không thôi khát khao một cuộc sống công bằng, nhân văn hơn.

Câu 2: (4 điểm) – Bài văn trình bày suy nghĩ về thông điệp của Dove


Trong thời đại công nghệ số, vẻ đẹp thường bị bóp méo bởi các tiêu chuẩn ảo và những hiệu ứng chỉnh sửa kỹ thuật số. Trước thực trạng đó, chiến dịch “Turn your back” của Dove mang một thông điệp vô cùng nhân văn và mạnh mẽ: Vẻ đẹp là không có chuẩn mực. Thông điệp này không chỉ khẳng định giá trị của vẻ đẹp tự nhiên, mà còn khuyến khích con người dũng cảm yêu thương chính mình – cả những điểm chưa hoàn hảo.


Chúng ta đang sống trong một thế giới mà hình ảnh tràn ngập các nền tảng mạng xã hội, nơi mà sự hoàn hảo được “đóng gói” qua các lớp filter và chỉnh sửa. Hệ quả là nhiều người, đặc biệt là giới trẻ, trở nên tự ti, luôn so sánh bản thân với những hình mẫu không thật. Chiến dịch của Dove không đơn thuần là một quảng cáo, mà là một lời nhắn gửi: hãy quay lưng lại với áp lực của sự hoàn hảo nhân tạo và học cách yêu thương bản thân đúng như những gì mình vốn có.


Vẻ đẹp thực sự không nằm ở chiếc mũi cao hay làn da không tì vết, mà nằm ở sự tự tin, lòng nhân hậu, sự tử tế và cá tính riêng biệt. Ai cũng có vẻ đẹp riêng, và không ai có quyền định nghĩa vẻ đẹp thay bạn. Hơn thế, tôn vinh vẻ đẹp thật còn là cách để chúng ta chống lại định kiến xã hội, bảo vệ sức khỏe tinh thần và xây dựng một thế giới bao dung hơn.


Thông điệp của Dove là lời nhắc nhở mạnh mẽ: hãy trân trọng bản thân, hãy yêu cái tự nhiên, bởi chính sự khác biệt mới tạo nên sự hoàn hảo thực sự. Và có lẽ, trong một thế giới đầy “sao chép”, thì việc là chính mình – với vẻ đẹp nguyên bản – mới thực sự là điều quý giá nhất.


Câu 1: (2 điểm) – Viết đoạn văn phân tích diễn biến tâm lý nhân vật ông giáo Thứ


Trong đoạn trích, diễn biến tâm lý của ông giáo Thứ được khắc họa chân thực và sâu sắc qua từng chi tiết. Ban đầu là sự hoảng hốt, bàng hoàng khi nhận ra cuộc đời mình cứ lặp đi lặp lại một cách vô nghĩa, tù túng và mòn mỏi. Từ đó, ông rơi vào bi kịch tâm lý – sự giằng xé giữa trách nhiệm và khát vọng cá nhân, giữa yêu thương và bất lực. Đặc biệt, khi ngồi ăn cơm một mình, tâm trạng của Thứ càng trở nên bế tắc. Ông nhận thấy mình như đang hưởng phần ăn “bất công” so với những người thân yêu đã chịu bao vất vả. Những dòng suy tư đầy xót xa, đau đớn đã khiến nước mắt ông trào ra – đó là biểu hiện của tình cảm gia đình sâu nặng, của một tấm lòng nhân hậu và sự tự vấn lương tâm. Qua diễn biến tâm lý này, ta thấy Thứ là người có trách nhiệm, giàu lòng trắc ẩn, luôn đau đáu vì người thân và không thôi khát khao một cuộc sống công bằng, nhân văn hơn.

Câu 2: (4 điểm) – Bài văn trình bày suy nghĩ về thông điệp của Dove


Trong thời đại công nghệ số, vẻ đẹp thường bị bóp méo bởi các tiêu chuẩn ảo và những hiệu ứng chỉnh sửa kỹ thuật số. Trước thực trạng đó, chiến dịch “Turn your back” của Dove mang một thông điệp vô cùng nhân văn và mạnh mẽ: Vẻ đẹp là không có chuẩn mực. Thông điệp này không chỉ khẳng định giá trị của vẻ đẹp tự nhiên, mà còn khuyến khích con người dũng cảm yêu thương chính mình – cả những điểm chưa hoàn hảo.


Chúng ta đang sống trong một thế giới mà hình ảnh tràn ngập các nền tảng mạng xã hội, nơi mà sự hoàn hảo được “đóng gói” qua các lớp filter và chỉnh sửa. Hệ quả là nhiều người, đặc biệt là giới trẻ, trở nên tự ti, luôn so sánh bản thân với những hình mẫu không thật. Chiến dịch của Dove không đơn thuần là một quảng cáo, mà là một lời nhắn gửi: hãy quay lưng lại với áp lực của sự hoàn hảo nhân tạo và học cách yêu thương bản thân đúng như những gì mình vốn có.


Vẻ đẹp thực sự không nằm ở chiếc mũi cao hay làn da không tì vết, mà nằm ở sự tự tin, lòng nhân hậu, sự tử tế và cá tính riêng biệt. Ai cũng có vẻ đẹp riêng, và không ai có quyền định nghĩa vẻ đẹp thay bạn. Hơn thế, tôn vinh vẻ đẹp thật còn là cách để chúng ta chống lại định kiến xã hội, bảo vệ sức khỏe tinh thần và xây dựng một thế giới bao dung hơn.


Thông điệp của Dove là lời nhắc nhở mạnh mẽ: hãy trân trọng bản thân, hãy yêu cái tự nhiên, bởi chính sự khác biệt mới tạo nên sự hoàn hảo thực sự. Và có lẽ, trong một thế giới đầy “sao chép”, thì việc là chính mình – với vẻ đẹp nguyên bản – mới thực sự là điều quý giá nhất.


a) Giống nhau:

Đều có tiềm năng thủy điện lớn do địa hình dốc và có nhiều sông ngòi.

Đều có các loại khoáng sản với trữ lượng lớn hoặc có giá trị kinh tế cao.

b) Khác nhau

− Trung du và miền núi Bắc Bộ

+ Đất: phần lớn là đất feralit trên đá phiến, đá vôi và các đá mẹ khác; còn có đất phù sa cổ ở trung du, đất phù sa dọc thung lũng sông và các cánh đồng ở miền núi (Than Uyên, Nghĩa Lộ…), tạo điều kiện trồng nhiều loài cây.

+ Khí hậu: nhiệt đới ẩm gió mùa, có mùa đông lạnh, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc của địa hình vùng núi là thế mạnh đặc biệt để phát triển các cây công nghiệp có nguồn gốc cận nhiệt và ôn đới (chè, trẩu, sở, hồi…). Khí hậu núi cao (ở vùng núi Hoàng Liên Sơn; vùng núi giáp biên giới ở Cao Bằng, Lạng Sơn…) thuận lợi cho trồng các cây thuốc quý, cây ăn quả, rau ôn đới…

+ Có nhiều đồng cỏ trên các cao nguyên (Mộc Châu, Sơn La…) để phát triển chăn nuôi trấu, bò, ngựa, dê.

− Tây Nguyên

+ Đất badan màu mỡ, tập trung với diện tích rộng, thuận lợi cho phát triển cây công nghiệp lâu năm (cà phê, cao su, hồ tiêu…) trên quy mô lớn.

+ Khí hậu: Có tính chất cận Xích đạo gió mùa, thuận lợi cho trồng các cây công nghiệp lâu năm nhiệt đới (cao su, cà phê, hồ tiêu). Trên các cao nguyên cao trên 1000m (Lâm Viên…), khí hậu rất mát mẻ, khá thuận lợi cho trồng các cây có nguồn gốc cận nhiệt đới (chè…).

+ Một số nơi có đồng cỏ tạo điều kiện chăn nuôi bò…

a) Giống nhau:

Đều có tiềm năng thủy điện lớn do địa hình dốc và có nhiều sông ngòi.

Đều có các loại khoáng sản với trữ lượng lớn hoặc có giá trị kinh tế cao.

b) Khác nhau

− Trung du và miền núi Bắc Bộ

+ Đất: phần lớn là đất feralit trên đá phiến, đá vôi và các đá mẹ khác; còn có đất phù sa cổ ở trung du, đất phù sa dọc thung lũng sông và các cánh đồng ở miền núi (Than Uyên, Nghĩa Lộ…), tạo điều kiện trồng nhiều loài cây.

+ Khí hậu: nhiệt đới ẩm gió mùa, có mùa đông lạnh, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc của địa hình vùng núi là thế mạnh đặc biệt để phát triển các cây công nghiệp có nguồn gốc cận nhiệt và ôn đới (chè, trẩu, sở, hồi…). Khí hậu núi cao (ở vùng núi Hoàng Liên Sơn; vùng núi giáp biên giới ở Cao Bằng, Lạng Sơn…) thuận lợi cho trồng các cây thuốc quý, cây ăn quả, rau ôn đới…

+ Có nhiều đồng cỏ trên các cao nguyên (Mộc Châu, Sơn La…) để phát triển chăn nuôi trấu, bò, ngựa, dê.

− Tây Nguyên

+ Đất badan màu mỡ, tập trung với diện tích rộng, thuận lợi cho phát triển cây công nghiệp lâu năm (cà phê, cao su, hồ tiêu…) trên quy mô lớn.

+ Khí hậu: Có tính chất cận Xích đạo gió mùa, thuận lợi cho trồng các cây công nghiệp lâu năm nhiệt đới (cao su, cà phê, hồ tiêu). Trên các cao nguyên cao trên 1000m (Lâm Viên…), khí hậu rất mát mẻ, khá thuận lợi cho trồng các cây có nguồn gốc cận nhiệt đới (chè…).

+ Một số nơi có đồng cỏ tạo điều kiện chăn nuôi bò…