Hoàng Thu Huyền

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Hoàng Thu Huyền
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

Câu 1:Ông giáo Thứ trong đoạn trích là một người có đời sống nội tâm sâu sắc với những day dứt và giằng xé giữa một bên là khát vọng về một cuộc sống có ý nghĩa, xứng đáng là cuộc sống, một bên là gánh nặng cơm áo gạo tiền.Qua ngòi bút của tác giả, sự chuyển biến tâm trạng của ông giáo thứ càng hiện lên sự tương phản mạnh mẽ, giữa cuộc sống tương lai tươi đẹp và hiện thực tàn khốc.Từ cảm xúc khao khát được sống một cuộc sống ý nghĩa đến cảm xúc chua xót, đau đớn khi nhận ra, đến sự bất lực không thể vùng vẫy, khiến một người đàn ông phải rơi giọt nước mắt cảm thán cho số phận mình. Dù nhiều lúc Thứ có những suy nghĩ ích kỉ nhưng xét đến cùng, đây vẫn là một con người lương thiện với tấm lòng vị tha, bao dung, luôn muốn giúp đỡ người khác và sống trách nhiệm với gia đình. Đây chính là đại diện tiêu biểu cho tầng lớp trí thức tiểu tư sản lúc bấy giờ với những đau khổ, những khát vọng và cả những phẩm chất tốt đẹp

Câu 1: Ngôi thứ ba

Câu 2: Điểm nhìn bên ngoài

 cho ta thấy bao quát được diễn biến của câu chuyện, thấy được một cái nhìn tổng thể, toàn diện

Câu 3: Vì Thứ mang một tâm trạng bị thảm, xót thương cho số phận của tầng lớp tri thức bấy giờ, giọt nước mắt cho số phận của những số phận cùng cực muốn cất cách bay cao nhưng bị áo cơm ghì sát đất

Câu 4:Phản ánh cuộc đời đầy bi kịch của tầng lớp trí thức tiểu tư sản lúc bấy giờ, những người trí thức có ý thức sâu sắc về giá trị sự sống và nhân phẩm, có hoài bão, tâm huyết và tài năng, muốn xây dựng một sự nghiệp tinh thần cao quý nhưng lại bị gánh nặng cơm áo và hoàn cảnh xã hội ngột ngạt làm cho “chết mòn”, phải sống như một kẻ vô ích, một người thừa trong xã hội.

- Thể hiện cái nhìn phát hiện về người trí thức tiểu tư sản với khát vọng, một lẽ sống lớn, có ích, có ý nghĩa, xứng đáng là cuộc sống con người.

- Thông qua câu chuyện để kịch liệt phê phán sâu sắc xã hội phi nhân đạo bóp nghẹt sự sống, tàn phá tâm hồn con người.

a) Giống nhau:

Đều có tiềm năng thủy điện lớn do địa hình dốc và có nhiều sông ngòi.

Đều có các loại khoáng sản với trữ lượng lớn hoặc có giá trị kinh tế cao.

b) Khác nhau

− Trung du và miền núi Bắc Bộ

+ Đất: phần lớn là đất feralit trên đá phiến, đá vôi và các đá mẹ khác; còn có đất phù sa cổ ở trung du, đất phù sa dọc thung lũng sông và các cánh đồng ở miền núi (Than Uyên, Nghĩa Lộ…), tạo điều kiện trồng nhiều loài cây.

+ Khí hậu: nhiệt đới ẩm gió mùa, có mùa đông lạnh, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc của địa hình vùng núi là thế mạnh đặc biệt để phát triển các cây công nghiệp có nguồn gốc cận nhiệt và ôn đới (chè, trẩu, sở, hồi…). Khí hậu núi cao (ở vùng núi Hoàng Liên Sơn; vùng núi giáp biên giới ở Cao Bằng, Lạng Sơn…) thuận lợi cho trồng các cây thuốc quý, cây ăn quả, rau ôn đới…

+ Có nhiều đồng cỏ trên các cao nguyên (Mộc Châu, Sơn La…) để phát triển chăn nuôi trấu, bò, ngựa, dê.

− Tây Nguyên

+ Đất badan màu mỡ, tập trung với diện tích rộng, thuận lợi cho phát triển cây công nghiệp lâu năm (cà phê, cao su, hồ tiêu…) trên quy mô lớn.

+ Khí hậu: Có tính chất cận Xích đạo gió mùa, thuận lợi cho trồng các cây công nghiệp lâu năm nhiệt đới (cao su, cà phê, hồ tiêu). Trên các cao nguyên cao trên 1000m (Lâm Viên…), khí hậu rất mát mẻ, khá thuận lợi cho trồng các cây có nguồn gốc cận nhiệt đới (chè…).

+ Một số nơi có đồng cỏ tạo điều kiện chăn nuôi bò…

Diện tích và sản lượng lúa

• Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) chiếm khoảng 51% diện tích và sản lượng lúa cả nước. Đây là vùng sản xuất lương thực chủ lực, cung cấp một lượng lớn gạo cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.

Bình quân lương thực đầu người

• Vùng ĐBSCL có bình quân lương thực đầu người đạt 1066,3 kg/người, gấp 2,3 lần so với cả nước. Điều này cho thấy mức độ sản xuất thực phẩm cao và khả năng cung cấp lương thực cao hơn nhiều so với các vùng khác.

Đặc sản cây ăn quả

• Đây còn là vùng trồng cây ăn quả lớn nhất cả nước với nhiều loại trái cây nhiệt đới như xoài, dừa, cam, bưởi, giúp đa dạng hóa sản phẩm nông nghiệp.

Chăn nuôi

• Nghề chăn nuôi, đặc biệt là nuôi vịt, cũng rất phát triển, với các tỉnh như Bạc Liêu, Sóc Trăng, Cà Mau, Vĩnh Long, Trà Vinh là những nơi nuôi nhiều vịt nhất, góp phần đáng kể vào nguồn thực phẩm.

Sản lượng thủy sản

• Tổng sản lượng thủy sản của ĐBSCL chiếm hơn 50% sản lượng thủy sản cả nước, với tỉnh nuôi nhiều nhất là Kiên Giang và Cà Mau. Nghề nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là tôm và cá xuất khẩu, đang ngày càng phát triển mạnh mẽ.

Điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội

• ĐBSCL có nhiều điều kiện thuận lợi để sản xuất thực phẩm, bao gồm đất đai màu mỡ, khí hậu nhiệt đới ẩm, và hệ thống sông ngòi phong phú, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp và thủy sản.

Từ những yếu tố trên, có thể khẳng định rằng Đồng bằng sông Cửu Long là vùng sản xuất thực phẩm lớn nhất cả nước, đóng góp quan trọng vào an ninh lương thực và xuất khẩu nông sản của Việt Nam