

Nguyễn Trung Hiếu
Giới thiệu về bản thân



































Câu 1 (2.0 điểm): Viết đoạn văn khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ về tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường Môi trường là không gian sống thiết yếu, là nền tảng cho sự tồn tại và phát triển bền vững của con người và mọi sinh vật trên Trái đất. Khi môi trường bị hủy hoại – như ô nhiễm không khí, biến đổi khí hậu, hay sự biến mất của các hệ sinh thái – không chỉ đời sống vật chất mà cả đời sống tinh thần của con người cũng bị đe dọa nghiêm trọng. Như trong văn bản đọc hiểu đã đề cập, “tiếc thương sinh thái” là minh chứng rõ rệt cho sự tổn thương tâm lí mà con người phải đối mặt trước sự biến mất của thiên nhiên. Vì vậy, việc bảo vệ môi trường không chỉ là nhiệm vụ của các chính phủ hay tổ chức lớn, mà còn là trách nhiệm của từng cá nhân. Chúng ta có thể bắt đầu từ những hành động nhỏ: trồng cây xanh, hạn chế sử dụng nhựa, tiết kiệm điện nước và lan tỏa lối sống thân thiện với thiên nhiên. Bảo vệ môi trường cũng chính là bảo vệ tương lai, gìn giữ những giá trị sống sâu sắc cho thế hệ mai sau. --- Câu 2 (4.0 điểm): Bài văn nghị luận khoảng 600 chữ so sánh, đánh giá hình tượng người ẩn sĩ Trong văn học trung đại, hình tượng người ẩn sĩ là một mẫu hình quen thuộc, đại diện cho lối sống thoát tục, hòa hợp với thiên nhiên. Qua hai bài thơ "Nhàn" (Nguyễn Bỉnh Khiêm) và bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, người đọc có thể cảm nhận được hai hình ảnh ẩn sĩ với những điểm tương đồng và sắc thái riêng biệt. Trước hết, điểm chung nổi bật của cả hai hình tượng là tâm thế ẩn dật, chọn sống tách biệt với chốn “lao xao” để giữ gìn nhân cách và lý tưởng sống thanh cao. Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện rất rõ điều này: “Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ/ Người khôn người đến chốn lao xao”. Câu thơ thể hiện sự chủ động, tự tin trong lựa chọn sống “dại” mà thực ra là “khôn” – từ bỏ danh lợi phù hoa để tìm về với thiên nhiên. Tương tự, trong bài thơ của Nguyễn Khuyến, không khí tĩnh lặng, vắng vẻ của mùa thu được khắc họa tinh tế qua hình ảnh: “Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao”, “Song thưa để mặc bóng trăng vào” – đó là không gian dành riêng cho người ẩn sĩ giao hòa cùng trời đất. Tuy nhiên, mỗi tác giả lại thể hiện người ẩn sĩ với sắc thái riêng. Ở Nguyễn Bỉnh Khiêm, đó là ẩn sĩ hành động, sống giản dị, gắn bó với lao động, tận hưởng cuộc sống thanh đạm mà an nhiên: “Một mai, một cuốc, một cần câu”, “Thu ăn măng trúc, đông ăn giá”. Con người hiện lên chủ động, mạnh mẽ, sống ung dung giữa tự nhiên với triết lí sống rõ ràng. Còn ở Nguyễn Khuyến, hình tượng ẩn sĩ lại mang chiều sâu cảm xúc và chiêm nghiệm, khi ông bày tỏ cảm hứng làm thơ rồi lại “thẹn với ông Đào” – thẹn vì chưa đạt tới cốt cách siêu thoát của bậc tiên nhân. Đó là một ẩn sĩ tài hoa, mang trong mình tâm hồn nghệ sĩ tinh tế và đầy tự trọng. Hai hình tượng đều góp phần thể hiện vẻ đẹp nhân cách và văn hóa truyền thống của người trí thức xưa: sống gần thiên nhiên, tránh xa danh lợi, giữ lòng thanh cao, trong sạch. Đồng thời, qua đó, các tác giả cũng thể hiện khát vọng được sống tự do, độc lập, hòa hợp với tự nhiên như một phương cách gìn giữ phẩm giá cá nhân. Tóm lại, hình tượng người ẩn sĩ qua thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Khuyến đều là biểu tượng của lối sống thanh đạm và cao khiết, nhưng mỗi người lại phác họa theo một sắc thái riêng – một bên thiên về triết lí hành động, một bên thiên về cảm xúc nghệ thuật. Hai bài thơ là tiếng lòng chân thực, sâu sắc của những tâm hồn lớn, luôn khát khao giữ trọn khí tiết giữa dòng đời biến động.
Câu 1 (2.0 điểm): Viết đoạn văn khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ về tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường Môi trường là không gian sống thiết yếu, là nền tảng cho sự tồn tại và phát triển bền vững của con người và mọi sinh vật trên Trái đất. Khi môi trường bị hủy hoại – như ô nhiễm không khí, biến đổi khí hậu, hay sự biến mất của các hệ sinh thái – không chỉ đời sống vật chất mà cả đời sống tinh thần của con người cũng bị đe dọa nghiêm trọng. Như trong văn bản đọc hiểu đã đề cập, “tiếc thương sinh thái” là minh chứng rõ rệt cho sự tổn thương tâm lí mà con người phải đối mặt trước sự biến mất của thiên nhiên. Vì vậy, việc bảo vệ môi trường không chỉ là nhiệm vụ của các chính phủ hay tổ chức lớn, mà còn là trách nhiệm của từng cá nhân. Chúng ta có thể bắt đầu từ những hành động nhỏ: trồng cây xanh, hạn chế sử dụng nhựa, tiết kiệm điện nước và lan tỏa lối sống thân thiện với thiên nhiên. Bảo vệ môi trường cũng chính là bảo vệ tương lai, gìn giữ những giá trị sống sâu sắc cho thế hệ mai sau. --- Câu 2 (4.0 điểm): Bài văn nghị luận khoảng 600 chữ so sánh, đánh giá hình tượng người ẩn sĩ Trong văn học trung đại, hình tượng người ẩn sĩ là một mẫu hình quen thuộc, đại diện cho lối sống thoát tục, hòa hợp với thiên nhiên. Qua hai bài thơ "Nhàn" (Nguyễn Bỉnh Khiêm) và bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, người đọc có thể cảm nhận được hai hình ảnh ẩn sĩ với những điểm tương đồng và sắc thái riêng biệt. Trước hết, điểm chung nổi bật của cả hai hình tượng là tâm thế ẩn dật, chọn sống tách biệt với chốn “lao xao” để giữ gìn nhân cách và lý tưởng sống thanh cao. Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện rất rõ điều này: “Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ/ Người khôn người đến chốn lao xao”. Câu thơ thể hiện sự chủ động, tự tin trong lựa chọn sống “dại” mà thực ra là “khôn” – từ bỏ danh lợi phù hoa để tìm về với thiên nhiên. Tương tự, trong bài thơ của Nguyễn Khuyến, không khí tĩnh lặng, vắng vẻ của mùa thu được khắc họa tinh tế qua hình ảnh: “Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao”, “Song thưa để mặc bóng trăng vào” – đó là không gian dành riêng cho người ẩn sĩ giao hòa cùng trời đất. Tuy nhiên, mỗi tác giả lại thể hiện người ẩn sĩ với sắc thái riêng. Ở Nguyễn Bỉnh Khiêm, đó là ẩn sĩ hành động, sống giản dị, gắn bó với lao động, tận hưởng cuộc sống thanh đạm mà an nhiên: “Một mai, một cuốc, một cần câu”, “Thu ăn măng trúc, đông ăn giá”. Con người hiện lên chủ động, mạnh mẽ, sống ung dung giữa tự nhiên với triết lí sống rõ ràng. Còn ở Nguyễn Khuyến, hình tượng ẩn sĩ lại mang chiều sâu cảm xúc và chiêm nghiệm, khi ông bày tỏ cảm hứng làm thơ rồi lại “thẹn với ông Đào” – thẹn vì chưa đạt tới cốt cách siêu thoát của bậc tiên nhân. Đó là một ẩn sĩ tài hoa, mang trong mình tâm hồn nghệ sĩ tinh tế và đầy tự trọng. Hai hình tượng đều góp phần thể hiện vẻ đẹp nhân cách và văn hóa truyền thống của người trí thức xưa: sống gần thiên nhiên, tránh xa danh lợi, giữ lòng thanh cao, trong sạch. Đồng thời, qua đó, các tác giả cũng thể hiện khát vọng được sống tự do, độc lập, hòa hợp với tự nhiên như một phương cách gìn giữ phẩm giá cá nhân. Tóm lại, hình tượng người ẩn sĩ qua thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Khuyến đều là biểu tượng của lối sống thanh đạm và cao khiết, nhưng mỗi người lại phác họa theo một sắc thái riêng – một bên thiên về triết lí hành động, một bên thiên về cảm xúc nghệ thuật. Hai bài thơ là tiếng lòng chân thực, sâu sắc của những tâm hồn lớn, luôn khát khao giữ trọn khí tiết giữa dòng đời biến động.