Phùng Anh Tú

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Phùng Anh Tú
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

Ta có \(4^{x} - 3. 2^{x + 2} + m = 0 \Leftrightarrow 4^{x} - 12. 2^{x} + m = 0\) (1)

Đặt \(t = 2^{x} , \left(\right. t > 0 \left.\right)\) phương trình (1) trở thành \(t^{2} - 12 t + m = 0\) \(\left(\right. 2 \left.\right)\).

YCBT \(\Leftrightarrow \left(\right. 2 \left.\right)\) có hai nghiệm dương phân biệt \(t = t_{1} ; t = t_{2}\) và log⁡2t1+log⁡2t2=5log2t1+log2t2=5

\(\Leftrightarrow{\Delta^{^{\prime}}>0,S>0,P>0,t_1.t_2=32}\)

\(\Leftrightarrow{36-m>0,m>0,m=32}\)

\(\Leftrightarrow m = 32\).

P(A)=0,2;P(B)=0,3;P(A)=0,8;P(B)=0,7.

a) Gọi \(C\) là biến cố: "Lần bắn thứ nhất trúng bia, lần bắn thứ hai không trúng bia".

C=AB, và A,B là hai biến cố độc lập

P(C)=P(A).P(B)=0,8.0,3=0,24.

b) Gọi biến cố \(D\): "Có ít nhất một lần bắn trúng bia".

Khi đó, biến cố D: "Cả hai lần bắn đều không trúng bia".

D=ABP(D)=0,06

P(D)=1−P(D)=0,94.


ΔSAB vuông tại \(A \Rightarrow S A ⊥ A B\).

\(\Delta S A D\) vuông tại \(A \Rightarrow S A ⊥ A D\).

Suy ra \(S A ⊥ \left(\right. A B C D \left.\right)\).

Gọi \(I\) là giao điểm của \(B M\)\(A D\).

Dựng \(A H\) vuông góc với \(B M\) tại \(H\).

Dựng \(A K\) vuông góc với \(S H\) tại \(K\).

\(SA\bot\left(\right.ABCD\left.\right),BM\subset\left(\right.ABCD\left.\right)\left.\right.\Rightarrow SA\bot BM\)\(B M ⊥ A H\)

\(\Rightarrow B M ⊥ \left(\right. S A H \left.\right)\).

Ta có \(BM\bot\left(\right.SAH\left.\right),BM\subset\left(\right.SBM\left.\right)\left.\right.\Rightarrow\left(\right.SAH\left.\right)\bot\left(\right.SBM\left.\right)\)

Ta có \(\left(\right.SAH\left.\right)\bot\left(\right.SBM\left.\right),\left(\right.SAH\left.\right)\cap\left(\right.SBM\left.\right)=SH,AK\subset\left(\right.SAH\left.\right),AK\bot SH\left.\right.\Rightarrow AK\bot\left(\right.SBM\left.\right)\)

\(\Rightarrow d \left(\right. A , \left(\right. S B M \left.\right) \left.\right) = A K\)

Xét \(\Delta I A B\)\(M D\) // \(A B \Rightarrow \frac{I D}{I A} = \frac{M D}{A B} = \frac{\frac{1}{2} C D}{A B} = \frac{1}{2}\)

\(\Rightarrow D\) là trung điểm của \(I A\) \(\Rightarrow I A = 2 A D = 2 a\).

\(\Delta A B I\) vuông tại \(A\)\(A H\) là đường cao \(\Rightarrow \frac{1}{A H^{2}} = \frac{1}{A B^{2}} + \frac{1}{A I^{2}} = \frac{1}{a^{2}} + \frac{1}{4 a^{2}} = \frac{5}{4 a^{2}}\).

\(\&SA\bot\left(\right.ABCD\left.\right),AH\subset\left(\right.ABCD\left.\right)\left.\right.\Rightarrow SA\bot AH\).

\(\Delta S A H\) vuông tại \(A\)\(A K\) là đường cao \(\Rightarrow \frac{1}{A K^{2}} = \frac{1}{S A^{2}} + \frac{1}{A H^{2}} = \frac{1}{4 a^{2}} + \frac{5}{4 a^{2}} = \frac{6}{4 a^{2}}\)

\(\Rightarrow A K^{2} = \frac{4 a^{2}}{6}\)\(\Rightarrow A K = \frac{2 a}{\sqrt{6}} \Rightarrow d \left(\right. A , \left(\right. S B M \left.\right) \left.\right) = \frac{2 a}{\sqrt{6}}\).

\(\frac{d \left(\right. D , \left(\right. S B M \left.\right) \left.\right)}{d \left(\right. A , \left(\right. S B M \left.\right) \left.\right)} = \frac{D I}{A I} = \frac{1}{2}\)

\(\Rightarrow d \left(\right. D , \left(\right. S B M \left.\right) \left.\right) = \frac{1}{2} d \left(\right. A , \left(\right. S B M \left.\right) \left.\right) = \frac{a}{\sqrt{6}}\).

câu 1

Nhân vật anh gầy trong truyện ngắn “Anh béo và anh gầy” của Sê-khốp là hình ảnh tiêu biểu cho kiểu người mang tư tưởng sùng bái địa vị, khúm núm trước quyền lực. Ban đầu, khi gặp lại bạn cũ, anh gầy vui mừng khôn xiết, thân tình, cởi mở, thể hiện sự quý mến chân thành. Tuy nhiên, ngay sau khi biết anh béo có chức cao quyền trọng, thái độ của anh thay đổi hoàn toàn: trở nên kính cẩn, khép nép, xưng hô lễ phép thái quá, gọi bạn là "quan trên", "bẩm", tự hạ thấp bản thân. Biểu hiện này không chỉ cho thấy sự thiếu tự trọng và sĩ diện mà còn phản ánh một căn bệnh xã hội – căn bệnh của những con người mất đi nhân cách vì danh lợi và địa vị. Thông qua nhân vật này, Sê-khốp đã phê phán gay gắt thói xu nịnh, coi trọng địa vị đến mức đánh mất tình bạn chân thành, từ đó gửi gắm bài học về cách cư xử có nhân cách, bất kể hoàn cảnh xã hội thay đổi ra sao.

câu 2

Trong cuộc sống, mỗi người đều gặp những tình huống không như mong muốn. Điều khác biệt là ở cách chúng ta lựa chọn thái độ sống trước hoàn cảnh. Có người phàn nàn vì bụi hồng có gai, nhưng cũng có người vui mừng vì bụi gai lại có hoa hồng. Câu nói trên đã gợi mở một bài học sâu sắc: chúng ta không thể kiểm soát mọi việc xảy ra, nhưng có thể kiểm soát cách ta nhìn nhận vấn đề.

Thực tế cho thấy, cuộc sống luôn tồn tại song song mặt tích cực và tiêu cực. Một người có cái nhìn lạc quan sẽ thấy trong nghịch cảnh có cơ hội, còn người bi quan lại chỉ nhìn thấy khó khăn. Ví dụ, trong khi một số người thất vọng vì kỳ thi không đạt kết quả như mong muốn, thì người khác lại coi đó là bài học quý để trưởng thành hơn. Người biết chọn cách nhìn tích cực sẽ luôn tìm thấy hướng đi mới, giữ được năng lượng sống tích cực và dễ dàng vượt qua thử thách.

Không thể phủ nhận rằng, đôi khi những nỗi buồn, thất bại khiến con người dễ chán nản và tiêu cực. Nhưng nếu mãi chìm đắm trong những điều tiêu cực, con người sẽ tự giới hạn khả năng và cơ hội của chính mình. Việc thay đổi góc nhìn không làm thay đổi thực tại, nhưng sẽ làm thay đổi cách ta đối diện với nó. Một tâm thế tích cực sẽ giúp con người mạnh mẽ, tự tin hơn trong hành trình đi tới thành công.

Bài học từ câu nói chính là: hãy trân trọng những điều đẹp đẽ, dù nhỏ bé, trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Thay vì trách móc vì có gai, hãy biết ơn vì có hoa. Bởi lẽ, hạnh phúc không nằm ở việc ta có được gì, mà ở chỗ ta cảm nhận và trân trọng điều đó như thế nào.

Tóm lại, cách nhìn nhận vấn đề quyết định rất lớn đến thái độ và chất lượng cuộc sống của mỗi người. Chúng ta không thể thay đổi cuộc đời theo ý muốn, nhưng có thể chọn sống với một trái tim lạc quan, biết yêu thương và hy vọng. Và khi đó, “bụi gai” nào rồi cũng có thể nở “hoa hồng” trong tâm hồn ta.

câu 1 văn bản thuộc thể loại truyện ngắn hiện thực châm biếm.

câu 2

Đoạn văn thể hiện sự thay đổi đột ngột là:

“Anh gầy bỗng dưng tái mét mặt, ngây ra như phỗng đá, nhưng lát sau thì anh ta toét miệng cười mặt mày nhăn nhúm; dường như mắt anh ta sáng hẳn lên. Toàn thân anh ta rúm ró, so vai rụt cổ khúm núm... Cả mấy thứ va-li, hộp, túi của anh ta như cũng co rúm lại, nhăn nhó... Chiếc cằm dài của bà vợ như dài thêm ra; thằng Na-pha-na-in thì rụt chân vào và gài hết cúc áo lại...”


câu 3

Tình huống truyện là cuộc gặp gỡ bất ngờ giữa hai người bạn thân từ thuở nhỏ – một người béo nay đã làm chức lớn, một người gầy sống nghèo khổ, bình thường – tại sân ga. Tình huống này tạo nên sự đối lập rõ rệt về địa vị xã hội, từ đó bộc lộ bản chất con người và thái độ ứng xử của họ với nhau.

câu 4

  • Trước khi biết cấp bậc của anh béo:
    Anh gầy rất vui mừng, thân mật, tự nhiên khi gặp lại bạn cũ. Anh trò chuyện hồ hởi, khoe vợ con, nhắc lại kỷ niệm thời đi học, không có sự e dè hay khoảng cách nào.
  • Sau khi biết anh béo là viên chức bậc ba, có chức tước:
    Anh gầy trở nên khúm núm, lễ phép một cách thái quá, tự ti và có phần giả tạo. Anh gọi bạn là “quan trên”, “quan lớn”, xưng là “kẻ bần dân”, cư xử đầy sợ sệt và hạ mình, làm mất đi sự thân tình ban đầu.

câu 5

Văn bản phê phán thái độ sính chức tước, coi trọng địa vị đến mức đánh mất phẩm giá và tình cảm chân thành giữa con người với con người. Qua hình ảnh anh gầy thay đổi thái độ ứng xử khi biết bạn làm quan lớn, tác giả Sê-khốp đã châm biếm thói xu nịnh, tự ti và giả tạo trong xã hội, đồng thời đề cao sự trung thực, chân thành trong các mối quan hệ.



câu 1

Trong khổ thơ cuối bài Tương tư, hình ảnh “giầu” và “cau” không chỉ là hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt Nam mà còn mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc trong tình yêu đôi lứa. “Nhà em có một giàn giầu / Nhà anh có một hàng cau liên phòng” – hai hình ảnh này thường đi liền trong văn hóa dân gian, tượng trưng cho sự gắn bó, kết đôi, là biểu tượng của tình yêu, hôn nhân. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh bài thơ, cau và giầu tuy “liên phòng” – gần gũi, sát cạnh – nhưng vẫn mang nỗi niềm cách trở. Câu hỏi đầy khắc khoải: “Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?” không chỉ thể hiện sự da diết trong tình cảm đơn phương của chàng trai, mà còn là nỗi niềm băn khoăn, mong mỏi được đáp lại tình yêu. Hình ảnh “cau” và “giầu” vừa tạo nên chất dân gian độc đáo, vừa khắc họa nỗi tương tư sâu sắc, khiến kết thúc bài thơ đọng lại một dư vị buồn man mác, đầy tiếc nuối và cô đơn.

câu 2

"Hành tinh của chúng ta là nơi duy nhất mà chúng ta có thể sống, chúng ta cần bảo vệ nó." (Leonardo DiCaprio)

Trong thời đại hiện nay, khi các vấn đề môi trường ngày càng trở nên nghiêm trọng, câu nói của Leonardo DiCaprio – "Hành tinh của chúng ta là nơi duy nhất mà chúng ta có thể sống, chúng ta cần bảo vệ nó" – không chỉ là một lời nhắc nhở mà còn là một lời kêu gọi khẩn thiết về trách nhiệm của con người đối với Trái đất – mái nhà chung của toàn nhân loại.

Thật vậy, Trái đất là hành tinh duy nhất được biết đến có đầy đủ điều kiện tự nhiên để duy trì sự sống: khí hậu ôn hòa, nguồn nước dồi dào, bầu không khí trong lành, hệ sinh thái đa dạng và phong phú. Đây là nơi con người đã sinh ra, trưởng thành và phát triển nền văn minh suốt hàng chục ngàn năm. Tuy nhiên, chính con người – với những hoạt động sản xuất công nghiệp, khai thác tài nguyên bừa bãi, sử dụng hóa chất độc hại, thải khí nhà kính – đã và đang khiến môi trường ngày càng bị tổn thương nghiêm trọng. Biến đổi khí hậu, băng tan, hạn hán, lũ lụt, ô nhiễm không khí, suy giảm đa dạng sinh học,… là những hồi chuông cảnh báo rõ ràng nhất về sự suy kiệt của Trái đất.

Trái đất không cần con người để tồn tại, nhưng con người lại không thể sống nếu thiếu Trái đất. Chúng ta không có một “hành tinh dự phòng” nào khác. Mọi giấc mơ về việc rời khỏi Trái đất để tìm nơi cư trú mới đều vẫn còn là viễn tưởng xa vời và đầy rủi ro. Do đó, bảo vệ Trái đất không phải là một lựa chọn, mà là một nghĩa vụ bắt buộc của tất cả chúng ta.

Mỗi cá nhân, tổ chức và quốc gia đều có vai trò trong công cuộc bảo vệ hành tinh xanh. Chúng ta có thể bắt đầu từ những hành động nhỏ nhưng thiết thực: trồng cây, tiết kiệm điện nước, giảm rác thải nhựa, sử dụng phương tiện công cộng, nâng cao nhận thức về môi trường… Đồng thời, các chính phủ cần ban hành và thực thi nghiêm túc những chính sách bảo vệ môi trường, đầu tư vào năng lượng tái tạo và phát triển bền vững.

Tóm lại, câu nói của Leonardo DiCaprio là một lời cảnh tỉnh đầy ý nghĩa. Trái đất là ngôi nhà duy nhất mà con người đang có, và nếu chúng ta không hành động ngay từ hôm nay, chính tương lai của nhân loại sẽ là điều bị đe dọa. Hãy sống xanh, sống có trách nhiệm – không chỉ vì thế hệ hiện tại, mà còn vì thế hệ mai sau.


câu 1

Bài thơ được viết theo thể thơ lục bát

câu 2

Cụm từ "chín nhớ mười mong" là một cách nói phóng đại (biện pháp nói quá) để diễn tả nỗi nhớ thương da diết, thường trực, không lúc nào nguôi ngoai. Nó thể hiện tâm trạng tương tư sâu sắc, khắc khoải đến mức nhớ nhiều hơn cả con số hoàn chỉnh, đầy đặn nhất – "mười".

câu 3

Câu thơ "Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông" sử dụng biện pháp nhân hóa. Từ "ngồi nhớ" vốn là hành động của con người, được gán cho “Thôn Đoài” – một địa danh.
→ Biện pháp nhân hóa này khiến nỗi nhớ trở nên hữu hình, cụ thể, chân thật và sinh động hơn, đồng thời tạo nên không khí thôn quê thân thuộc, gần gũi, mang đậm chất dân gian trong thơ Nguyễn Bính. Nó cũng gián tiếp thể hiện tâm trạng của chàng trai đang tương tư cô gái ở thôn bên.

câu 4

Hai dòng thơ:
"Bao giờ bến mới gặp đò?
Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau?"
→ Gợi lên cảm xúc xa cách, chờ đợi và khao khát sum họp.

  • Hình ảnh “bến” và “đò” là ẩn dụ cho đôi lứa đang cách trở, trông ngóng ngày hội ngộ.
  • Câu thơ sau với hình ảnh “hoa khuê các” (cô gái sống kín đáo, đoan trang) và “bướm giang hồ” (chàng trai phong trần, phiêu bạt) gợi sự khác biệt trong hoàn cảnh sống và khó khăn trong việc đến với nhau.
    → Hai câu thơ vừa lãng mạn, vừa gợi buồn, thể hiện tình yêu đơn phương và nỗi mong ngóng trong vô vọng.
  • câu 5
  • Nội dung của bài thơ:
    Bài thơ “Tương tư” của Nguyễn Bính thể hiện tâm trạng tương tư da diết, khắc khoải và cô đơn của chàng trai dành cho cô gái ở thôn bên. Dù khoảng cách địa lý không xa, nhưng khoảng cách tình cảm lại trở nên cách trở, khiến tình yêu không thể chạm đến. Bài thơ là tiếng lòng thổn thức, vừa tha thiết, vừa xót xa, thể hiện nét đẹp mộc mạc, chân thành và đầy trữ tình của tình yêu quê hương.

câu 1:  nghị luận

câu 2

Cảm xúc, thái độ của người viết trong phần (3) là sự bâng khuâng, xao xuyến và đồng cảm sâu sắc với nỗi cô đơn, lạc lõng của cái tôi trữ tình trong bài thơ. Người viết không chỉ phân tích mà còn thổ lộ cảm xúc cá nhân, hòa mình vào dòng chảy của bài thơ, cảm thấy như chính mình cũng là “cành củi khô”, “cánh chim nhỏ” – những hình ảnh tượng trưng cho thân phận nhỏ bé giữa vũ trụ rộng lớn và dòng đời vô tận.

câu 3

Trong phần (1), tác giả chỉ ra nét khác biệt của Tràng giang so với thơ xưa trong việc tái tạo cái “tĩnh vắng mênh mông” là:

  • Thơ xưa thường cảm nhận sự thanh vắng bằng tâm thế an nhiên, tự tại, mang nét đẹp cổ điển, nhẹ nhàng.
  • Trong khi đó, Tràng giang tái hiện không gian tĩnh vắng với nỗi cô đơn, bơ vơ, trống trải tuyệt đối, biến sự tĩnh mịch thành cảm giác hoang sơ, lạnh lẽo, đậm chất hiện đại và thấm đẫm nỗi niềm nhân thế.

câu 4

Trong phần (2), tác giả đã phân tích các yếu tố ngôn ngữ sau để làm rõ “nhịp chảy trôi miên viễn” của Tràng giang:

  • Từ láy: điệp điệp, song song, lớp lớp, dợn dợn... → gợi sự tiếp nối, lan dài, nhịp nhàng.
  • Cặp câu tương xứng: “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp/ Con thuyền xuôi mái nước song song” → tạo hiệu ứng trùng điệp, kéo dài.
  • Cấu trúc câu phân tầng, đuổi nhau: “Nắng xuống/ trời lên/ sâu chót vót. Sông dài/ trời rộng/ bến cô liêu”.
  • Từ ngữ gợi sự tiếp nối: “hàng nối hàng”, “tiếp bãi vàng”...
    → Tất cả tạo nên một âm điệu trôi xuôi, miên viễn như một dòng sông chảy mãi không dừng.
  • câu 5
  • Em ấn tượng nhất với đặc điểm: Tràng giang là sự kết hợp hài hòa giữa chất cổ điển và tinh thần hiện đại – điều được tác giả phân tích rõ trong phần (1) của văn bản.

Vì sao?
Bởi vì đặc điểm này thể hiện chiều sâu tư tưởng và sự độc đáo trong phong cách thơ Huy Cận. Bài thơ vừa có vẻ đẹp của thơ Đường với cảnh sắc tĩnh tại, trang nhã, lại vừa chan chứa nỗi niềm cô đơn, khắc khoải của con người hiện đại. Sự kết hợp ấy khiến Tràng giang trở nên đặc biệt – vừa cổ kính, vừa gần gũi với tâm hồn hôm nay, chạm đến những nỗi niềm phổ quát của con người trong mọi thời đại.

câu 1:  nghị luận

câu 2

Cảm xúc, thái độ của người viết trong phần (3) là sự bâng khuâng, xao xuyến và đồng cảm sâu sắc với nỗi cô đơn, lạc lõng của cái tôi trữ tình trong bài thơ. Người viết không chỉ phân tích mà còn thổ lộ cảm xúc cá nhân, hòa mình vào dòng chảy của bài thơ, cảm thấy như chính mình cũng là “cành củi khô”, “cánh chim nhỏ” – những hình ảnh tượng trưng cho thân phận nhỏ bé giữa vũ trụ rộng lớn và dòng đời vô tận.

câu 3

Trong phần (1), tác giả chỉ ra nét khác biệt của Tràng giang so với thơ xưa trong việc tái tạo cái “tĩnh vắng mênh mông” là:

  • Thơ xưa thường cảm nhận sự thanh vắng bằng tâm thế an nhiên, tự tại, mang nét đẹp cổ điển, nhẹ nhàng.
  • Trong khi đó, Tràng giang tái hiện không gian tĩnh vắng với nỗi cô đơn, bơ vơ, trống trải tuyệt đối, biến sự tĩnh mịch thành cảm giác hoang sơ, lạnh lẽo, đậm chất hiện đại và thấm đẫm nỗi niềm nhân thế.

câu 4

Trong phần (2), tác giả đã phân tích các yếu tố ngôn ngữ sau để làm rõ “nhịp chảy trôi miên viễn” của Tràng giang:

  • Từ láy: điệp điệp, song song, lớp lớp, dợn dợn... → gợi sự tiếp nối, lan dài, nhịp nhàng.
  • Cặp câu tương xứng: “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp/ Con thuyền xuôi mái nước song song” → tạo hiệu ứng trùng điệp, kéo dài.
  • Cấu trúc câu phân tầng, đuổi nhau: “Nắng xuống/ trời lên/ sâu chót vót. Sông dài/ trời rộng/ bến cô liêu”.
  • Từ ngữ gợi sự tiếp nối: “hàng nối hàng”, “tiếp bãi vàng”...
    → Tất cả tạo nên một âm điệu trôi xuôi, miên viễn như một dòng sông chảy mãi không dừng.
  • câu 5
  • Em ấn tượng nhất với đặc điểm: Tràng giang là sự kết hợp hài hòa giữa chất cổ điển và tinh thần hiện đại – điều được tác giả phân tích rõ trong phần (1) của văn bản.

Vì sao?
Bởi vì đặc điểm này thể hiện chiều sâu tư tưởng và sự độc đáo trong phong cách thơ Huy Cận. Bài thơ vừa có vẻ đẹp của thơ Đường với cảnh sắc tĩnh tại, trang nhã, lại vừa chan chứa nỗi niềm cô đơn, khắc khoải của con người hiện đại. Sự kết hợp ấy khiến Tràng giang trở nên đặc biệt – vừa cổ kính, vừa gần gũi với tâm hồn hôm nay, chạm đến những nỗi niềm phổ quát của con người trong mọi thời đại.