

Nông Trung Tấn
Giới thiệu về bản thân



































5:
Dưới cờ, gươm tuốt nắp ra,
Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư.
Thoắt trông, nàng đã chào thưa:
"Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!
Đàn bà dễ có mấy tay,
Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan!
Dễ dàng là thói hồng nhan,
Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều!"
Hoạn Thư hồn lạc, phách xiêu,
Khấu đầu dưới trướng, dở điều kêu ca.
Rằng: "Tôi chút dạ đàn bà,
Ghen tuông, thì cũng người ta thường tình!
Nghĩ cho khi các viết kinh(1),
Với khi khỏi cửa, dứt tình chẳng theo.
Lòng riêng, riêng cũng kính yêu,
Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai!
Trót lòng gây việc chông gai,
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng."
Khen cho: "Thật đã nên rằng,
Khôn ngoan đến mực, nói năng phải lời.
Tha ra thì cũng may đời,
Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.
Đã lòng tri quá(2) thì nên!
Truyền quân lệnh(3) xuống, trướng tiền(4) tha ngay(5)."
Tạ lòng, lạy trước sân mây,
Cửa viên(6) lại dắt một dây dẫn vào.
Nàng rằng: "Lồng lộng trời cao!
Hại nhân, nhân hại, sự nào tại ta?
Trước là Bạc Hạnh, Bạc Bà,
Bên là Ưng, Khuyển, bên là Sở Khanh.
Tú Bà với Mã Giám Sinh,
Các tên tội ấy đáng tình còn sao?"
Lệnh quân truyền xuống nội đao(7),
Thề sao, thì lại cứ sao gia hình(8).
Máu rơi, thịt nát tan tành,
Ai ai trông thấy hồn kinh, phách rời.
Cho hay muôn sự tại trời,
Phụ người, chẳng bỏ khi người phụ ta!
Mấy người bạc ác, tinh ma,
Mình làm, mình chịu, kêu mà ai thương!
Ba quân đông mặt pháp trường,
Thanh thiên, bạch nhật, rõ ràng cho coi.
(Truyện Kiều, Nguyễn Du)
* Chú thích:
(1) Các viết kinh: Chỉ khi ở Quan Âm các, Hoạn Thư cho dầu đèn đủ, lại cho hai đứa hầu là có ý nương nhẹ tài Kiều. Và khi Kiều trốn đi mang cả đồ kim ngân mà Hoạn Thư cho qua, không đuổi theo, nên giờ kể ra để chạy tội.
(2) Tri quá: Biết lỗi.
(3) Quân lệnh: Lời quan truyền xuống.
(4) Trướng tiền: Những kẻ ở dưới.
(5) Tha ngay: Đoạn này theo nguyên truyện: “Vương phu nhân lại truyền cho tả hữu đem Kế thị (mẹ Hoạn Thư) ra nọc đánh 30 roi. Quân lính sắp ra tay thì Hoạn thư xin chịu đòn thay và mụ quản gia [...] xin tình nguyện chết thay cho nhũ mẫu. Vương phu nhân nể lời mụ quản gia tha tội cho Kế thị [...] nhưng Kế thị sợ quá đã chết ngay tức thì. Vương phu nhân lại truyền lệnh đem Hoạn thư ra, lột trần áo xiêm, chỉ để cho một cái khố, buộc tóc lên xà nhà rồi sai đánh 100 trượng. [...] Hoạn Thư luôn giãy giụa kêu trời, toàn thân chẳng còn miếng da nào lành lặn.” Nguyễn Du đã không theo mà để Kiều tha cho Hoạn Thư và không nhắc gì đến Kế thị, thật có phong thể.
(6) Cửa viên: Tức viên môn, cửa quan.
(7) Nội đao: Thị vệ, quân cầm đao, cầm búa đứng hầu cận.
(8) Thề sao, thì lại cứ sao gia hình: “Gia hình” là thi hành hình phạt với phạm nhân. Đoạn này nguyên truyện mô tả hình phạt tương ứng lời thề của từng đứa, Kiều xử băm xác tên này, đốt thây tên nọ rất ghê sợ. Nguyễn Du chỉ thu lại trong một câu mà không nêu ra chi tiết.
Câu 1. Xác định những phương thức biểu đạt được sử dụng trong đoạn trích.
Câu 2. Sự việc nào được tái hiện trong đoạn trích trên?
Câu 3. Vì sao Hoạn Thư lại được Thúy Kiều tha tội?
Câu 4. Phân tích tác dụng của các biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn:
"Trước là Bạc Hạnh, Bạc Bà,
Bên là Ưng, Khuyển, bên là Sở Khanh.
Tú Bà với Mã Giám Sinhâu 5. Nội dung của đoạn trích trên là gì?
*Câu 1: Xác định những phương thức biểu đạt được sử dụng trong đoạn trích.*
Đoạn trích sử dụng các phương thức biểu đạt như:
- *Tự sự*: kể lại sự việc Hoạn Thư bị xử tội và được Thúy Kiều tha thứ
- *Biểu cảm*: thể hiện qua lời nói và hành động của các nhân vật
- *Miêu tả*: miêu tả cảnh tượng và tâm trạng của nhân vật
*Câu 2: Sự việc nào được tái hiện trong đoạn trích trên?*
Sự việc được tái hiện trong đoạn trích là Hoạn Thư bị xử tội vì tội ghen tuông và trả thù, nhưng sau đó được Thúy Kiều tha thứ vì biết lỗi và tỏ ra khôn ngoan, biết ăn năn.
*Câu 3: Vì sao Hoạn Thư lại được Thúy Kiều tha tội?*
Hoạn Thư được Thúy Kiều tha tội vì:
- Biết lỗi và tỏ ra khôn ngoan, biết ăn năn
- Có hành động khiêm nhường và xin lỗi
- Thúy Kiều thấy được sự chân thành và biết lỗi của Hoạn Thư
*Câu 4: Phân tích tác dụng của các biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn: "Trước là Bạc Hạnh, Bạc Bà, Bên là Ưng, Khuyển, bên là Sở Khanh. Tú Bà với Mã Giám Sinh, Các tên tội ấy đáng tình còn sao?"*
Các biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn này là:
- *Liệt kê*: liệt kê các tên tội phạm để so sánh với tội của Hoạn Thư
- *Điệp từ*: lặp lại từ "bên" để nhấn mạnh sự tương đồng giữa các tội phạm
- *Câu hỏi tu từ*: đặt câu hỏi "Các tên tội ấy đáng tình còn sao?" để thể hiện sự so sánh và nhấn mạnh tội của Hoạn Thư không đáng được tha thứ hơn những người khác.
*Câu 5: Nội dung của đoạn trích trên là gì?*
Nội dung của đoạn trích là về sự trả thù và tha thứ trong quan hệ giữa con người với con người, thể hiện qua câu chuyện về Hoạn Thư và Thúy Kiều. Đoạn trích cũng thể hiện sự khôn ngoan và biết ăn năn của Hoạn Thư, cũng như lòng khoan dung và độ lượng của Thúy Kiều ¹.
pt :(2^x)^2 -3*2*2^+m =0
2^2x-6*2^x+m=0. (1)
đặt t=2^x (t> 0)
(1) : t^2-6t+m=0.(2)
để (1) có 2 nghiệm phân biệt x1; X2
Thì (2) phải có 2 nghiệm t dương phân biệt
Д' > 0 9 -
- m > 0
t1 +12 >0 5
3 >0
tutz>0
m >0
→0<m<9
Khi đó (1) có 2 nghiệm phân biệt:
x1 = 10g2 +1; X2 = 10g2 tz.
→ x1 +x2 > 2→10g2t1+logtz<2
→ log2 (t1t2) < 2 → log2 m < 2
#m <2→m <4
Kết hợp điều kiện ta có: 0 < m < 4 thỏa mãn điêu kiện bài toán.
a, ta có biến cố "lần bắn thứ nhất trúng bia " là 0,8
"lần bắn thứ 2 không trúng bia " là 0,3
ta tính theo ct P(A')*P(B) =0.8*0.3=0.24
b, xác suất để cả hai lần bắn đều không trúng bia là P(A)*P(B) =0.2*0.3=0.06
xác suất để ít nhất một lần bắn trúng bia là phần đối của không bắn trúng bia : P(ít nhất một lần bắn trúng) =1-0.06=0.94
Tính khoảng cách từ điểm D đến mặt phẳng (SBM):
Kẻ DI ⊥ BM tại I.
DI ⊥ BM và DI ⊥ SA => DI ⊥ (SBM).
DI là khoảng cách từ D đến (SBM).
DI = AK = a√2 / 2
Câu 1:
Bài thơ Than đạo học của tác giả Nguyễn Khoa Viêm có những vết thươngcủa tác giả Nguyễn Khoa Viêm có những nét đặc sắc rõ ràng về cả nội dung và nghệ thuật. Về nội dung, bài thơ thể hiện niềm tin ngày chắc chắn, lo của người học trò trước con đường học vấn đầy gian nan, kiên cố. Tác giả không chỉ trình bày sự kính trọng đối với tri thức mà vẫn thấy được sự khó khăn trong công việc tiếp theo và hiển thị với con đường học tập. Thông qua hình ảnh những vật lộn với các bài học, bài thơ gửi một thông điệp về sự cần cù, chăm chỉ và không ngừng nỗ lực trong học tập.
Về nghệ thuật, bài thơ có sự kết hợp giữa hình ảnh so sánh, ẩn và biểu cảm sâu sắc. Những từ ngữ như "học hành như nội cơm" hay "bước chân nặngu" không chỉ vẽ ra sự gian nan mà còn thể hiện sự nỗ lực không ngừng nghỉ của người học. Ngoài ra, thể thơ tự do và cách sử dụng nhịp điệu linh hoạt cũng tạo nên gần gũi, dễ tiếp cận cho người đọc. Bài thơ không chỉ là tiếng lòng của người học trò chơi mà còn là một lời khuyên về sự triển khai và lòng quyết tâm trong công việc tiếp theo thu tri thức.
câu 2
Trong xã hội hiện đại, học tập luôn được xem là chìa khóa mở cửa tương lai, giúp mỗi cá nhân phát triển toàn diện và đạt được thành công trong cuộc sống. Tuy nhiên, hiện nay, ý thức học tập của sinh viên đang là một vấn đề đáng sợ. Mặc dù có nhiều học sinh chăm chỉ, ham học, nhưng không ít bạn lại tỏ ra thờ ơ, thiếu trách nhiệm trong việc học tập. Vậy tại sao ý thức học tập của học sinh lại có sự phân hóa như vậy? Và làm thế nào để nâng cao ý thức học tập trong cộng đồng học sinh hiện nay?
Trước đó, chúng ta cần nhận thức rằng, ý thức học tập của sinh viên hiện nay đã bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố. Một trong số đó là sự mạnh mẽ mạnh mẽ của các phương tiện giải trí đa phương tiện, đặc biệt là các thiết bị công nghệ hiện đại. Các trò chơi điện tử, mạng xã hội tạo ra sinh viên dễ dàng sao nhãng và mất tập trung vào công việc học. Thêm vào đó, áp lực từ gia đình và xã hội cũng khiến nhiều sinh viên cảm thấy mệt mỏi, không còn động lực để học hành một cách nguy hiểm. Một số học sinh thiếu sự định hướng rõ ràng về tương lai và không hiểu được tầm quan trọng của việc học nên thiếu động lực phấn đấu.
Tuy nhiên, chúng tôi không thể phủ nhận rằng, trong xã hội ngày nay, việc học vẫn là yếu tố vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của mỗi cá nhân. Học tập không chỉ giúp học sinh tiếp theo tri thức mà còn rèn luyện tính năng chiến đấu, tinh thần trách nhiệm và khả năng giải quyết vấn đề. Để nâng cao ý thức học tập của học sinh, trước đây, gia đình và nhà trường cần phải tạo ra một môi trường học tập tích cực, động viên, khuyến khích học sinh phát triển hết khả năng của mình. Các thầy cô giáo cần chú ý đến việc dạy một cách sáng tạo gần gũi, giúp học sinh nhận thấy giá trị thực sự của tri thức, từ đó tạo ra động lực học tập giác giác.
Bên cạnh đó, học sinh cũng phải tự ý thức được vai trò của mình trong việc học tập. Các em cần hiểu rằng, học tập không chỉ là nhiệm vụ mà còn là cơ hội để phát triển bản thân. Khi học sinh nhận thức được mức độ tầm quan trọng của học tập và chủ động trong công việc học thì kết quả học tập sẽ được cải thiện tốt hơn. Học sinh cần biết quản lý thời gian hợp lý, hạn chế các yếu tố gây sao nhãng và chủ động tìm kiếm tri thức từ nhiều nguồn khác nhau.
Bên cạnh công việc học tập ở trường lớp, học sinh cũng cần tích cực tham gia các hoạt động ngoại khóa, thực hành, nghiên cứu khoa học để phát triển các kỹ năng sống và ứng dụng kiến thức vào thực tế. Hoạt động này không chỉ giúp học sinh phát triển toàn diện mà còn giúp các em nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng của việc học và vai trò của mình trong cộng đồng.
Câu 2: Đề tài của bài thơ này là sự chán nản và thất vọng của tác giả đối với Nho học (Đạo học) trong thời kỳ thực dân Pháp cai trị Việt Nam.
Câu 3: Tác giả cho rằng "Đạo học ngày nay đã chán rồi" vì chương trình thi cử đã bị sửa đổi, bớt chữ Hán và tăng chữ quốc ngữ, làm cho Nho học mất đi giá trị và ý nghĩa truyền thống.
Câu 4: Tác giả sử dụng những từ láy như "lim dim", "nhấp nhổm", "rụt rè" để mô tả hình ảnh và tâm trạng của các nhân vật trong bài thơ. Những từ láy này giúp tạo ra một không khí u ám và chán nản, đồng thời cũng thể hiện sự tinh tế và tài năng của tác giả trong việc sử dụng ngôn ngữ.
Câu 5: Nội dung của bài thơ này là sự phê phán và chán nản của tác giả đối với Nho học trong thời kỳ suy tàn, khi mà giá trị và ý nghĩa của nó đã bị mất đi. Bài thơ cũng thể hiện sự bất mãn của tác giả với thực trạng xã hội và giáo dục thời bấy giờ.