

TRẦN HÀ UYÊN
Giới thiệu về bản thân



































câu 1: bài làm
Môi trường và hệ sinh thái là vật chất quan trọng nhất nơi con người có thể tồn tại và phát triển. Chúng ta sống trong môi trường nào, dù ở bất cứ đâu thì cũng cần bảo vệ môi trường bởi lẽ bảo vệ môi trường thiên nhiên là bảo vệ cuộc sống của chúng ta. Môi trường thiên nhiên chính là những sự vật có sẵn ở tự nhiên bao quanh con người mà chúng ta nhìn thấy hằng ngày: nước, đất, không khí, cây cối,.. Hiện nay, môi trường đang bị ô nhiễm nặng nề, không khí nhiều khói bụi, nguồn nước ô nhiễm mang nhiều mầm bệnh nguy hiểm, cây rừng bị chặt phá rất nhiều và vô tổ chức khiến cho diện tích rừng tự nhiên giảm mạnh ở mức báo động đỏ, môi trường đất cũng bị suy thoái, sạt lở, bạc màu,… Trước thực trạng đáng buồn này, mỗi cá nhân phải có nhận thức đúng đắn về vai trò, tầm quan trọng của môi trường tự nhiên đối với cuộc sống của mình, từ đó có những hành động thiết thực để bảo vệ. Mỗi người một hành động nhỏ nhưng tạo nên được giá trị to lớn. Chúng ta quan tâm đến môi trường hơn một chút, có ý thức giữ gìn từ những việc nhỏ nhất như: xả rác đúng nơi quy định, phân loại rác, hạn chế sử dụng bao bì ni lông,… đến những hành động lớn lao hơn như trồng cây gây rừng, tuyên truyền, vận động con người không xả rác, bảo vệ môi trường xung quanh; khắc phục những ô nhiễm trước đây mà con người gây ra,… Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng và nhà nước cần có những biện pháp mạnh mẽ hơn để ngăn chặn những hành vi gây ô nhiễm môi trường cũng như khắc phục tình trạng ô nhiễm hiện tại. Môi trường và hệ sinh thái có xanh, sạch, đẹp thì chất lượng cuộc sống mới tốt hơn, chúng ta hãy có ý thức bảo vệ, giữ gìn môi trường sống xung quanh ngay từ hôm nay.
câu 2:
Trong lịch sử văn học Việt Nam, hình tượng người ẩn sĩ là biểu tượng của những con người cao khiết, ưa chuộng cuộc sống thanh nhàn, xa lánh chốn bon chen danh lợi. Hai bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm và bài thơ thu của Nguyễn Khuyến đều khắc họa thành công hình tượng này, tuy cùng hướng về thiên nhiên nhưng lại toát lên hai tâm thế sống khác nhau: một dứt khoát, chủ động; một trầm lắng, đầy chiêm nghiệm.
Nguyễn Bỉnh Khiêm, trong bài thơ “Nhàn”, đã thể hiện rõ hình tượng một ẩn sĩ lý tưởng. Mở đầu bài thơ là những vật dụng giản dị: “một mai, một cuốc, một cần câu” – biểu tượng của lao động tự lập, không lệ thuộc. Ông chọn sống giữa thiên nhiên, tìm về “nơi vắng vẻ”, ngược với số đông “đến chốn lao xao”. Đây không chỉ là sự lựa chọn môi trường sống, mà là sự lựa chọn lý tưởng sống. Với ông, “phú quý” chỉ là “chiêm bao” – hư ảo và phù phiếm. Người ẩn sĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm hiện lên với sự thanh thản tuyệt đối, sống đúng với triết lý Lão – Trang: hòa mình vào tự nhiên để giữ gìn nhân cách và sự tự do trong tâm hồn.
Khác với sự dứt khoát đó, bài thơ thu của Nguyễn Khuyến lại khắc họa người ẩn sĩ với vẻ trầm mặc, sâu lắng hơn. Không nói nhiều về lựa chọn hay triết lý, ông để thiên nhiên lên tiếng: trời thu “xanh ngắt”, “cần trúc lơ phơ”, ánh trăng len vào song cửa, tiếng ngỗng vọng từ xa. Tất cả tạo nên một không gian tĩnh lặng, cô liêu nhưng đầy chất thơ. Trong không gian ấy, nhà thơ “toan cất bút” nhưng rồi “lại thẹn với ông Đào”. Câu thơ như một tiếng thở dài, thể hiện sự giằng xé nội tâm – muốn quên chuyện thế sự nhưng lòng vẫn còn vướng bận. Hình tượng người ẩn sĩ trong thơ Nguyễn Khuyến vì thế gần gũi hơn, mang dáng vẻ một con người từng trải, luôn suy tư về thế sự, nhưng vẫn mong giữ được cốt cách thanh cao.
Dù thể hiện theo hai cách khác nhau, cả Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Khuyến đều gửi gắm vào hình tượng ẩn sĩ một thông điệp nhân văn sâu sắc. Đó là khát vọng sống trong sạch, thoát khỏi vòng danh lợi để giữ trọn khí tiết. Tuy nhiên, hình tượng của Nguyễn Bỉnh Khiêm là mẫu mực của một bậc trí giả đã thoát khỏi mọi vướng bận trần thế, trong khi hình tượng của Nguyễn Khuyến lại là người ẩn sĩ mang nhiều tâm tư, thể hiện nỗi buồn thời thế và sự hoài niệm quá khứ.
Tóm lại, hình tượng người ẩn sĩ trong hai bài thơ không chỉ thể hiện quan điểm sống của mỗi tác giả mà còn phản ánh bối cảnh lịch sử và tâm hồn của những trí thức lớn trong văn học trung đại. Một Nguyễn Bỉnh Khiêm ung dung giữa thiên nhiên, một Nguyễn Khuyến trầm tư trước bóng thu, cả hai đều khiến người đọc hôm nay thêm trân trọng vẻ đẹp của những tâm hồn thanh cao, chọn lối sống nhàn để giữ đạo làm người trong những giai đoạn đầy biến động.
câu 1: Hiện tượng tiếc thương sinh thái là nỗi đau khổ trước những mất mác về sinh thái do biến đổi khí hậu gây raNhững mất mát này có thể là sự biến mất của các loài sinh vật hoặc sự thay đổi của những cảnh quan quan trọng đối với đời sống tinh thần của con người. Nỗi đau này giống như cảm giác mất mát khi mất người thân
Câu 5. Thông điệp sâu sắc nhất mà tôi nhận được từ bài viết trên là biến đổi khí hậu không chỉ là một vấn đề về môi trường mà còn là một vấn đề về sức khỏe tâm thần và tinh thần của con người. Nỗi tiếc thương sinh thái là một phản ứng tự nhiên đối với những mất mát về môi trường sống và cảnh quan, nhắc nhở chúng ta về sự liên kết mật thiết giữa con người và thiên nhiên.
Câu 2. Bài viết trên trình bày thông tin theo trình tự từ khái niệm và xuất xứ của hiện tượng tiếc thương sinh thái, sau đó là những trường hợp cụ thể về tác động của biến đổi khí hậu đối với các cộng đồng khác nhau. Cuối cùng, bài viết đưa ra kết quả nghiên cứu về cảm xúc của trẻ em và thanh thiếu niên đối với biến đổi khí hậu, nhằm nhấn mạnh tác động rộng rãi của vấn đề này.
câu 3: Tác giả đã sử dụng những bằng chứng khoa học các con số thống kê và những ví dụ thực tiễn để cung cấp những thông tin xác thực cho người đọc về hiện tượng tâm lý "tiếc thương sinh thái" một hậu quả của biến đổi khí hậu
Câu 4. Cách tiếp cận vấn đề biến đổi khí hậu của tác giả rất sâu sắc và nhân văn. Tác giả không chỉ đơn thuần đưa ra thông tin về biến đổi khí hậu mà còn đi sâu vào tác động tâm lý của nó đối với con người, đặc biệt là cảm xúc tiếc thương sinh thái. Điều này giúp người đọc cảm nhận được sự gần gũi và nghiêm trọng của vấn đề, đồng thời nhấn mạnh rằng tác động không chỉ ảnh hưởng đến môi trường mà còn đến tinh thần và tâm lý của con người.
1.Phương thức biểu đạt chính: biểu cảm
2.Các tác phẩm được gợi nhắc: Nàng tiên cá (qua câu thơ “Em là nàng tiên mang trái tim trần thế/ Bởi biết yêu nên đã hoá con người”), Cô bé bán diêm (qua câu thơ “Que diêm cuối cùng vẫn cháy trọn tình yêu”)..tác dụng: mang đến cảm giác nhẹ nhàng
5.Những nét đẹp của nhân vật trữ tình được thể hiện trong khổ cuối:
- Nhân vật trữ tình trong bài thơ là một người đam mê truyện cổ tích, những câu chuyện đem đến những bài học ý nghĩa của cuộc đời, gắn bó với cuộc đời thật.
4.Biện pháp nghệ thuật: So sánh (Biển mặn mòi như nước mắt của em). khiến hình ảnh sinh động gần gũi
5.
câu 5:Thấu hiểu những khắc nghiệt của thiên nhiên và những khó khăn, vất vả mà người dân miền
câu1:Đoạn trích trên được viết theo thể thơ tự do.
câu4: tác dụng của việc vận dụng thành ngữ trong dòng thơ
+ Thấu hiểu những khắc nghiệt của thiên nhiên và những khó khăn, vất vả mà người dân miền
Trung phải gánh chịu.
+ Bộc lộ tình yêu, tình cảm gắn bó máu thịt và lòng trân trọng của tác giả đối với con người nơi đây
câu3: - Mảnh đất miền Trung: địa hình hẹp ngang, thường phải gánh chịu thiên tai, lũ lụt; tạo nên những bất lợi cho hoạt động sản xuất và sinh sống của người dân. - Con người miền Trung: giàu tình yêu thương, giàu lòng nhân ái v
câu 1:thể thơ của của đoạn trích là thể thơ tự do
câu 2: trong đoạn trích nhà thơ bày tỏ lòng biết ơn đối với: những cánh sẻ nâu, tuổi sinh thành, mẹ, trò chơi tuổi thơ, dấu chân bấm mặt đường xa
câu 4: hiệu quả của phép thuật cú pháp trong đoạn trích là phân tích lý giải và tổng hợp