TRIỆU THỊ LINH

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của TRIỆU THỊ LINH
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

Câu 1.
Hiện tượng tiếc thương sinh thái là nỗi đau khổ trước những mất mát về môi trường tự nhiên do biến đổi khí hậu gây ra, khiến con người phản ứng tương tự như khi mất người thân.


Câu 2.
Bài viết trình bày thông tin theo trình tự: giới thiệu hiện tượng → định nghĩa khái niệm → đưa ra ví dụ cụ thể → phân tích ảnh hưởng → mở rộng phạm vi tác động.


Câu 3.
Tác giả sử dụng các bằng chứng như: nghiên cứu của Cunsolo và Ellis về người Inuit và nông dân Australia; lời kể của người dân bản địa Brazil khi rừng Amazon cháy; khảo sát cảm xúc về biến đổi khí hậu của trẻ em và thanh thiếu niên ở 10 quốc gia.


Câu 4.
Tác giả tiếp cận vấn đề biến đổi khí hậu dưới góc độ tâm lý con người, làm nổi bật tác động tinh thần sâu sắc và lâu dài của biến đổi khí hậu thay vì chỉ nhấn mạnh hậu quả vật chất.


Câu 5.
Thông điệp sâu sắc nhất là: Biến đổi khí hậu không chỉ hủy hoại môi trường tự nhiên mà còn gây ra những tổn thương tâm lý nặng nề cho con người, vì vậy cần hành động kịp thời để bảo vệ Trái Đất và chính cuộc sống của chúng ta.


Câu 1.
Phương thức biểu đạt chính của văn bản là biểu cảm.


Câu 2.
Văn bản gợi nhắc đến những tác phẩm nổi tiếng của Andecxen như:

  • Nàng tiên cá,
  • Cô bé bán diêm.

Câu 3.
Việc gợi nhắc các tác phẩm của Andecxen giúp tăng chiều sâu cảm xúc, khơi gợi thế giới cổ tích ngọt ngào, đồng thời làm nổi bật vẻ đẹp mơ mộng, trong sáng của tình yêu trong bài thơ.


Câu 4.
Biện pháp so sánh "Biển mặn mòi như nước mắt của em" làm nổi bật nỗi buồn sâu sắc và sự mất mát trong tình yêu, đồng thời tăng tính biểu cảm cho hình ảnh biển và tâm trạng của nhân vật trữ tình.


Câu 5.
Ở khổ thơ cuối, nhân vật trữ tình hiện lên với vẻ đẹp của lòng tin vào tình yêu vĩnh cửu, dù cuộc đời còn nhiều bão tố, bất trắc; đó là vẻ đẹp của sự kiên định, ấm áp và giàu lòng nhân ái.



Câu 1.
Phương thức biểu đạt chính của văn bản là biểu cảm.


Câu 2.
Văn bản gợi nhắc đến những tác phẩm nổi tiếng của Andecxen như:

  • Nàng tiên cá,
  • Cô bé bán diêm.

Câu 3.
Việc gợi nhắc các tác phẩm của Andecxen giúp tăng chiều sâu cảm xúc, khơi gợi thế giới cổ tích ngọt ngào, đồng thời làm nổi bật vẻ đẹp mơ mộng, trong sáng của tình yêu trong bài thơ.


Câu 4.
Biện pháp so sánh "Biển mặn mòi như nước mắt của em" làm nổi bật nỗi buồn sâu sắc và sự mất mát trong tình yêu, đồng thời tăng tính biểu cảm cho hình ảnh biển và tâm trạng của nhân vật trữ tình.


Câu 5.
Ở khổ thơ cuối, nhân vật trữ tình hiện lên với vẻ đẹp của lòng tin vào tình yêu vĩnh cửu, dù cuộc đời còn nhiều bão tố, bất trắc; đó là vẻ đẹp của sự kiên định, ấm áp và giàu lòng nhân ái.



Câu 1.
Thể thơ của đoạn trích là thơ tự do.


Câu 2.
Nhân vật trữ tình bày tỏ lòng biết ơn đối với:

  • Những cánh sẻ nâu,
  • Người mẹ,
  • Trò chơi tuổi nhỏ,
  • Những dấu chân trần trên mặt đường xa.

Câu 3.
Dấu ngoặc kép trong dòng thơ "Chuyền chuyền một..." có công dụng dẫn lại nguyên văn lời của trò chơi dân gian, giúp gợi nhớ không khí hồn nhiên của tuổi thơ.


Câu 4.
Phép lặp cú pháp "Biết ơn..." làm cho cảm xúc tri ân trở nên tha thiết, sâu sắc, đồng thời tạo nhịp điệu trữ tình cho đoạn thơ.


Câu 5.
Thông điệp có ý nghĩa nhất là: Hãy trân trọng và biết ơn những điều bình dị đã vun đắp nên tâm hồn và cuộc đời mỗi người.






Câu 1

Bảo vệ môi trường có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự sống của con người cũng như toàn bộ hệ sinh thái trên Trái Đất. Môi trường trong lành mang lại nguồn nước sạch, không khí trong sạch, đất đai màu mỡ và sự đa dạng sinh học – những yếu tố thiết yếu duy trì sự tồn tại và phát triển bền vững. Ngược lại, môi trường ô nhiễm không chỉ gây ra thiên tai, dịch bệnh mà còn tác động tiêu cực đến sức khỏe thể chất và tinh thần của mỗi người, thậm chí dẫn đến những khủng hoảng tâm lý như “tiếc thương sinh thái”. Hiện nay, biến đổi khí hậu đã không còn là nguy cơ xa vời mà đang diễn ra từng ngày, đe dọa trực tiếp tới tương lai nhân loại. Vì vậy, việc bảo vệ môi trường không chỉ là trách nhiệm của riêng ai mà cần sự chung tay của toàn xã hội. Mỗi người cần có ý thức hành động thiết thực như tiết kiệm tài nguyên, trồng cây xanh, giảm rác thải nhựa,... để góp phần giữ gìn ngôi nhà chung của chúng ta. Bảo vệ môi trường cũng chính là bảo vệ sự sống và tương lai của chính mình.


Câu 2

Trong văn học trung đại Việt Nam, hình tượng người ẩn sĩ xuất hiện như một biểu tượng cho khát vọng sống tự do, thanh cao, xa lánh bụi trần. Qua hai bài thơ "Nhàn" (Nguyễn Bỉnh Khiêm) và bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, hình tượng người ẩn sĩ hiện lên với những nét đẹp riêng biệt nhưng cùng chung một lý tưởng sống cao cả.

Trong bài "Nhàn" của Nguyễn Bỉnh Khiêm, người ẩn sĩ hiện ra với phong thái an nhàn, tự tại giữa thiên nhiên. Với "một mai, một cuốc, một cần câu", cuộc sống của ông gắn liền với lao động giản dị và thú vui điền viên. Ông chủ động lựa chọn lối sống "tìm nơi vắng vẻ", đối lập với sự "lao xao" của chốn bon chen, danh lợi. Thức ăn của ông cũng rất đơn sơ: "thu ăn măng trúc, đông ăn giá", tắm mát theo mùa tự nhiên. Mỗi hành động như uống rượu dưới bóng cây, nhìn đời phú quý như "chiêm bao" cho thấy tâm hồn thanh thản, tỉnh táo trước mọi cám dỗ trần thế. Nguyễn Bỉnh Khiêm khắc họa hình ảnh người ẩn sĩ với khí chất uyên bác, triết lí sống an nhiên, hòa hợp với thiên nhiên và thấu hiểu lẽ đời.

Trong bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, hình tượng người ẩn sĩ lại mang vẻ đẹp sâu lắng, trầm tư hơn. Không khí mùa thu hiện ra "xanh ngắt", "gió hắt hiu", "nước biếc", gợi nên cảm giác vắng lặng, mênh mang. Người ẩn sĩ chìm đắm trong khung cảnh ấy, không vướng bận chuyện đời, để mặc bóng trăng lọt qua song thưa, lặng lẽ ngắm hoa tàn và nghe tiếng ngỗng kêu xa vắng. Sự tĩnh lặng ấy không chỉ là của cảnh vật mà còn phản ánh tâm trạng con người: thấm đượm nỗi buồn thời thế và nỗi niềm tự vấn trước lòng mình. Khi "nhân hứng cũng vừa toan cất bút" nhưng rồi "thẹn với ông Đào", Nguyễn Khuyến thể hiện lòng tự trọng, khiêm nhường và niềm hổ thẹn trước những bậc ẩn sĩ xưa đã sống trọn đạo cao đời trong sáng.

Dù ở hai phong cách khác nhau, hình tượng người ẩn sĩ trong cả hai bài đều thể hiện chung một khát vọng thoát khỏi vòng danh lợi, tìm về với cuộc sống giản dị, hòa hợp với thiên nhiên. Nếu Nguyễn Bỉnh Khiêm thiên về lối sống "tri túc" - biết đủ, ung dung tự tại thì Nguyễn Khuyến lại thiên về sự cô tịch, thấm đượm nỗi buồn thời cuộc. Cả hai đều cho thấy tâm hồn lớn của những con người yêu thiên nhiên, trọng đạo lý và có tấm lòng vì dân vì nước.

Qua hai bài thơ, ta càng thêm trân trọng những giá trị tinh thần mà hình tượng người ẩn sĩ đem lại: đó là sự thanh sạch tâm hồn, là khát vọng giữ gìn bản ngã trong một thế giới nhiều xô bồ, biến động.