

Đặng Hương Quỳnh
Giới thiệu về bản thân



































Câu 1:
Môi trường của chúng ta lâu nay đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng và nguyên nhân chính là từ các hoạt động của con người như xả rác thải không đúng nơi quy định, khói bụi từ xe cộ, nhà máy công nghiệp, đốt rừng,… Chính vì tình trạng như vậy, chúng ta cần phải có những giải pháp hợp lí để giảm thiểu tác động của các cá nhân lên môi trường. Việc bảo vệ môi trường không chỉ để góp phần tạo nên cảnh quan đẹp mà còn nhằm mục đích bảo vệ sức khoẻ co người. Môi trường ô nhiễm gây ra nhiều bệnh tật nguy hiểm như ung thư, các bệnh về đường hô hấp, tim mạch,… Nguồn nước ô nhiễm, thực phẩm bấn ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người. Tạo một môi trường sống trong lành, sạch đẹp có thể giúp con người có sức khỏe tốt hơn, tuổi thọ cao hơn. Bên cạnh đó, việc bảo vệ môi trường cũng có thể duy trì sự cân bằng sinh thái. Sự mất cân bằng sinh thái dẫn đến nhiều hậu quả nghiêm trọng như tuyệt chủng loài, biến đổi khí hậu, thiên tai,… Vì thế, việc bảo vệ môi trường là bảo vệ sự đa dạng sinh học, duy trì sự cân bằng của các hệ sinh thái. Bảo vệ môi trường cũng đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, thứ có tác động lớn đến nền kinh tế nước ta. Tài nguyên thiên nhiên như rừng, khoáng sản, nước là nguồn sống của con người và khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên dẫn đến cạn kiệt, gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng cho kinh tế và xã hội. Chúng ta nên có những biện pháp sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách hợp lý, bền vững. Việc bảo vệ môi trường không chỉ là vấn đề của một tổ chức hay một quốc gia mà nó là nhiệm vụ của tất cả mọi cá nhân sống trên hành tinh này. Để chính mình có môi trường sống lành mạnh, chúng ta cần phải chung tay để bảo vệ môi trường càng sớm càng tốt.
Câu 2:
Hai bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm và Thu vịnh của Nguyễn Khuyến đều đã thể hiện tình yêu thiên nhiên và khát vọng hoà mình vào thiên nhiên của hai nhà thơ. Tuy vậy, giữa cả hai vẫn có những nét riêng độc đáo.
Cả hai bài thơ đều có nét tương giao đặc sắc. Nguyễn Khuyến và Nguyễn Bỉnh Khiêm đã bộc lộ tình yêu thiên nhiên và khát khao hoà mình vào thiên nhiên. Cả hai bài thơ đều thể hiện tình yêu sâu sắc đối với thiên nhiên và mong muốn được hòa mình vào cuộc sống gần gũi với thiên nhiên. Nếu Nguyễn Bỉnh Khiêm chọn cuộc sống "thu ăn măng trúc, đông ăn giá, xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao", thể hiện sự gắn bó với những cảnh vật bình dị của làng quê thì Nguyễn Khuyến cũng say đắm trước vẻ đẹp của mùa thu với "trời thu xanh ngắt mấy từng cao", "nước biếc trông như tầng khói phủ". Ngoài tình yêu với thiên nhiên, cả hai tác giả cũng thể hiện thái độ coi thường danh lợi. Cả hai nhà thơ đều thế hiện sự coi thường danh lợi, phú quý, lựa chọn cuộc sống thanh đạm, tự do. Nguyễn Bỉnh Khiêm viết: "Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao", thể hiện sự chán ghét chốn quan trường. Nguyễn Khuyến cũng "nghĩ ra lại thẹn với ông Đào" thể hiện sự tự thẹn khi nghĩ đến việc mưu cầu danh lợi. Bên cạnh đó, cả hai bài thơ đã bộc lộ tâm hồn thanh cao, thoát tục và khát vọng hướng về cuộc sống bình yên của tác giả. Cả hai bài thơ đều thể hiện tâm hồn thanh cao, thoát tục của người ấn sĩ, mong muốn được sống một cuộc đời thanh thản, tự tại. Nguyễn Bỉnh Khiêm "thơ thẩn dầu ai vui thú nào", thể hiện sự ung dung, tự tại trước cuộc đời. Nguyễn Khuyến "nhân hứng cũng vừa toan cất bút", thế hiện sự rung cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên và mong muốn được ghi lại những khoảnh khắc đẹp đẽ của cuộc sống.
Ngoài những nét tương đồng ấy, cả hai bài thơ vẫn có những nét riêng độc đáo. Với hoàn cảnh sáng tác, “Nhàn” được sáng tác trong giai đoạn xã hội có nhiều biến động, qua đó thể hiện tâm trạng bất mãn, muốn lánh xa chốn quan trường. “Thu vịnh” được sáng tác trong giai đoạn đất nước bị thực dân Pháp xâm lược, khiến cho tâm trạng bất lực, chán nản bao trùm bài thơ. Cả hai bài thơ còn có điểm khác biệt trong việc thể hiện cái “nhàn”. Trong khi cái “nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm thế hiện sự chủ động, tự tại, tận hướng cuộc sống thanh bình thì với Nguyễn Khuyến đó là sự bất đắc dĩ, mang chút buồn bã, cô đơn.
Cả hai bài thơ đều thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người ẩn sĩ, đề cao lối sống thanh cao, hòa mình vào thiên nhiên. Mỗi bài thơ đều sử dụng những nét độc đáo riêng về ngôn ngữ, hình ảnh, giọng điệu, góp phần làm phong phú thêm hình tượng người ẩn sĩ trong văn học Việt Nam. Đồng thời, hai bài thơ cũng đã góp phần thể hiện cái nhìn đa dạng và phong phú về người ẩn sĩ, khi gợi lòng yêu thiên nhiên và ý thức sống thanh cao trong mỗi người.
Hai bài thơ “Nhàn” và “Thu vịnh” đều là hai tác phẩm thơ ca xuất sắc đã để lại dấu ấn trong lòng biết bao bạn đọc từ trước đến nay. Dù bằng cách nào, cả hai tác giả cũng đã thành công trong việc đưa mọi người đến với thế giới nội tâm đầy sâu sắc của hai người.
Câu 1:
- Theo bài viết trên, hiện tượng tiếc thương sinh thái là nỗi đau khổ trước những mất mát về sinh thái mà con người hoặc là đã trải qua, hoặc là tin rằng đang ở phía trước.
Câu 2:
- Bài viết trên được trình bày theo một trình tự đi việc giới thiệu vấn đề, phân tích nguyên nhân, hậu quả, và kết thúc bằng sự mở rộng vấn đề sang những đối tượng khác, đặc biệt là thế hệ trẻ.
Câu 3:
- Tác giả đã sử dụng các bằng chứng được trình bày qua những nghiên cứu của Cunsolo và Ellis (2018), Caroline Hickman và cộng sự (2021). Bên cạnh đó là hàng loạt các số liệu thống kê và ví dụ thực tế được đưa ra để tăng tính thuyết phục cho văn bản.
Câu 4:
- Tác giả đã tiếp cận vấn đề biến đổi khí hậu một cách đầy tinh tế và đa chiều. Tác giả không chỉ phân tích những ảnh hưởng của vấn đề nghiêm trọng này trên phương diện môi trường mà còn mở rộng trên phương diện tâm lý và văn hóa. Vấn đề này được mở rộng toàn diện để chạm đến cảm xúc người đọc, qua đó giúp mọi người có cái nhìn bao quát hơn với biến đổi khí hậu.
Câu 5:
- Qua văn bản trên, tác giả đã gửi đến độc giả thông điệp đầy ý nghĩa rằng biến đổi khí hậu không chỉ ảnh hưởng đến môi trường mà còn đến cả tâm lý và đời sống tinh thần của con người. Sự tàn phá của thiên nhiên và môi trường sống không chỉ gây ra những tổn thất vật chất mà còn dẫn đến những mất mát về văn hóa và mối liên hệ tinh thần của con người với thế giới tự nhiên. Văn bản không chỉ cảnh báo về tác động của biến đổi khí hậu, mà còn kêu gọi chúng ta nhận thức về những tác động tâm lý mà con người phải đối mặt, từ đó thúc đẩy hành động để bảo vệ môi trường, giảm thiểu thảm họa sinh thái và bảo vệ tinh thần của cộng đồng nhân loại.