

Triệu Phúc Tuệ
Giới thiệu về bản thân



































### **Giải bài 3** #### **Dữ kiện bài toán:** 1. Đồng vị \( ^{238}\text{U} \) phân rã thành \( ^{206}\text{Pb} \): - Chu kỳ bán rã \( T = 4,47 \cdot 10^9 \) năm. 2. Khối lượng hiện tại: - \( m_{^{238}\text{U}} = 46,97 \, \text{mg} \), - \( m_{^{206}\text{Pb}} = 23,15 \, \text{mg} \). 3. Giả sử ban đầu chỉ có \( ^{238}\text{U} \), và toàn bộ \( ^{206}\text{Pb} \) là sản phẩm phân rã. Cần tìm tuổi của khối đá \( t \). --- #### **Công thức phân rã:** Số nguyên tử ban đầu \( N_0 \) và số nguyên tử hiện tại \( N \) liên hệ với nhau qua: \[ N = N_0 \cdot e^{-\lambda t}, \] trong đó: - \( N_0 = N + N_{\text{Pb}} \) (số nguyên tử ban đầu), - \( \lambda = \frac{\ln(2)}{T} \) (hằng số phân rã), - \( t \): thời gian cần tìm. Từ đó: \[ \frac{N_0}{N} = e^{\lambda t}. \] Lấy logarit hai vế: \[ t = \frac{1}{\lambda} \cdot \ln\left(\frac{N_0}{N}\right). \] --- #### **Bước 1: Tính số mol của \( ^{238}\text{U} \) và \( ^{206}\text{Pb} \):** - Số mol \( n = \frac{m}{M} \), - \( M_{^{238}\text{U}} = 238 \, \text{g/mol} \), - \( M_{^{206}\text{Pb}} = 206 \, \text{g/mol} \). 1. Số mol của \( ^{238}\text{U} \): \[ n_{^{238}\text{U}} = \frac{46,97 \cdot 10^{-3}}{238} \approx 1,973 \cdot 10^{-4} \, \text{mol}. \] 2. Số mol của \( ^{206}\text{Pb} \): \[ n_{^{206}\text{Pb}} = \frac{23,15 \cdot 10^{-3}}{206} \approx 1,124 \cdot 10^{-4} \, \text{mol}. \] --- #### **Bước 2: Tính số nguyên tử:** - Số nguyên tử \( N = n \cdot N_A \), với \( N_A = 6,022 \cdot 10^{23} \). 1. Số nguyên tử của \( ^{238}\text{U} \): \[ N_{^{238}\text{U}} = 1,973 \cdot 10^{-4} \cdot 6,022 \cdot 10^{23} \approx 1,188 \cdot 10^{20}. \] 2. Số nguyên tử của \( ^{206}\text{Pb} \): \[ N_{^{206}\text{Pb}} = 1,124 \cdot 10^{-4} \cdot 6,022 \cdot 10^{23} \approx 6,769 \cdot 10^{19}. \] --- #### **Bước 3: Tính \( N_0 \):** \[ N_0 = N_{^{238}\text{U}} + N_{^{206}\text{Pb}}. \] \[ N_0 = 1,188 \cdot 10^{20} + 6,769 \cdot 10^{19} \approx 1,865 \cdot 10^{20}. \] --- #### **Bước 4: Tính tuổi \( t \):** Hằng số phân rã: \[ \lambda = \frac{\ln(2)}{T} = \frac{0,693}{4,47 \cdot 10^9} \approx 1,55 \cdot 10^{-10} \, \text{năm}^{-1}. \] Thay vào công thức: \[ t = \frac{1}{\lambda} \cdot \ln\left(\frac{N_0}{N}\right). \] \[ t = \frac{1}{1,55 \cdot 10^{-10}} \cdot \ln\left(\frac{1,865 \cdot 10^{20}}{1,188 \cdot 10^{20}}\right). \] Tính \( \ln\left(\frac{1,865}{1,188}\right) \): \[ \ln\left(\frac{1,865}{1,188}\right) \approx \ln(1,57) \approx 0,451. \] Do đó: \[ t = \frac{0,451}{1,55 \cdot 10^{-10}} \approx 2,91 \cdot 10^9 \, \text{năm}. \] --- ### **Kết quả: Tuổi của khối đá là \( \mathbf{2,91 \, \text{tỉ năm}}. \)**
### **Giải bài 3** #### **Dữ kiện bài toán:** 1. Đồng vị \( ^{238}\text{U} \) phân rã thành \( ^{206}\text{Pb} \): - Chu kỳ bán rã \( T = 4,47 \cdot 10^9 \) năm. 2. Khối lượng hiện tại: - \( m_{^{238}\text{U}} = 46,97 \, \text{mg} \), - \( m_{^{206}\text{Pb}} = 23,15 \, \text{mg} \). 3. Giả sử ban đầu chỉ có \( ^{238}\text{U} \), và toàn bộ \( ^{206}\text{Pb} \) là sản phẩm phân rã. Cần tìm tuổi của khối đá \( t \). --- #### **Công thức phân rã:** Số nguyên tử ban đầu \( N_0 \) và số nguyên tử hiện tại \( N \) liên hệ với nhau qua: \[ N = N_0 \cdot e^{-\lambda t}, \] trong đó: - \( N_0 = N + N_{\text{Pb}} \) (số nguyên tử ban đầu), - \( \lambda = \frac{\ln(2)}{T} \) (hằng số phân rã), - \( t \): thời gian cần tìm. Từ đó: \[ \frac{N_0}{N} = e^{\lambda t}. \] Lấy logarit hai vế: \[ t = \frac{1}{\lambda} \cdot \ln\left(\frac{N_0}{N}\right). \] --- #### **Bước 1: Tính số mol của \( ^{238}\text{U} \) và \( ^{206}\text{Pb} \):** - Số mol \( n = \frac{m}{M} \), - \( M_{^{238}\text{U}} = 238 \, \text{g/mol} \), - \( M_{^{206}\text{Pb}} = 206 \, \text{g/mol} \). 1. Số mol của \( ^{238}\text{U} \): \[ n_{^{238}\text{U}} = \frac{46,97 \cdot 10^{-3}}{238} \approx 1,973 \cdot 10^{-4} \, \text{mol}. \] 2. Số mol của \( ^{206}\text{Pb} \): \[ n_{^{206}\text{Pb}} = \frac{23,15 \cdot 10^{-3}}{206} \approx 1,124 \cdot 10^{-4} \, \text{mol}. \] --- #### **Bước 2: Tính số nguyên tử:** - Số nguyên tử \( N = n \cdot N_A \), với \( N_A = 6,022 \cdot 10^{23} \). 1. Số nguyên tử của \( ^{238}\text{U} \): \[ N_{^{238}\text{U}} = 1,973 \cdot 10^{-4} \cdot 6,022 \cdot 10^{23} \approx 1,188 \cdot 10^{20}. \] 2. Số nguyên tử của \( ^{206}\text{Pb} \): \[ N_{^{206}\text{Pb}} = 1,124 \cdot 10^{-4} \cdot 6,022 \cdot 10^{23} \approx 6,769 \cdot 10^{19}. \] --- #### **Bước 3: Tính \( N_0 \):** \[ N_0 = N_{^{238}\text{U}} + N_{^{206}\text{Pb}}. \] \[ N_0 = 1,188 \cdot 10^{20} + 6,769 \cdot 10^{19} \approx 1,865 \cdot 10^{20}. \] --- #### **Bước 4: Tính tuổi \( t \):** Hằng số phân rã: \[ \lambda = \frac{\ln(2)}{T} = \frac{0,693}{4,47 \cdot 10^9} \approx 1,55 \cdot 10^{-10} \, \text{năm}^{-1}. \] Thay vào công thức: \[ t = \frac{1}{\lambda} \cdot \ln\left(\frac{N_0}{N}\right). \] \[ t = \frac{1}{1,55 \cdot 10^{-10}} \cdot \ln\left(\frac{1,865 \cdot 10^{20}}{1,188 \cdot 10^{20}}\right). \] Tính \( \ln\left(\frac{1,865}{1,188}\right) \): \[ \ln\left(\frac{1,865}{1,188}\right) \approx \ln(1,57) \approx 0,451. \] Do đó: \[ t = \frac{0,451}{1,55 \cdot 10^{-10}} \approx 2,91 \cdot 10^9 \, \text{năm}. \] --- ### **Kết quả: Tuổi của khối đá là \( \mathbf{2,91 \, \text{tỉ năm}}. \)**
### **Giải bài 3** #### **Dữ kiện bài toán:** 1. Đồng vị \( ^{238}\text{U} \) phân rã thành \( ^{206}\text{Pb} \): - Chu kỳ bán rã \( T = 4,47 \cdot 10^9 \) năm. 2. Khối lượng hiện tại: - \( m_{^{238}\text{U}} = 46,97 \, \text{mg} \), - \( m_{^{206}\text{Pb}} = 23,15 \, \text{mg} \). 3. Giả sử ban đầu chỉ có \( ^{238}\text{U} \), và toàn bộ \( ^{206}\text{Pb} \) là sản phẩm phân rã. Cần tìm tuổi của khối đá \( t \). --- #### **Công thức phân rã:** Số nguyên tử ban đầu \( N_0 \) và số nguyên tử hiện tại \( N \) liên hệ với nhau qua: \[ N = N_0 \cdot e^{-\lambda t}, \] trong đó: - \( N_0 = N + N_{\text{Pb}} \) (số nguyên tử ban đầu), - \( \lambda = \frac{\ln(2)}{T} \) (hằng số phân rã), - \( t \): thời gian cần tìm. Từ đó: \[ \frac{N_0}{N} = e^{\lambda t}. \] Lấy logarit hai vế: \[ t = \frac{1}{\lambda} \cdot \ln\left(\frac{N_0}{N}\right). \] --- #### **Bước 1: Tính số mol của \( ^{238}\text{U} \) và \( ^{206}\text{Pb} \):** - Số mol \( n = \frac{m}{M} \), - \( M_{^{238}\text{U}} = 238 \, \text{g/mol} \), - \( M_{^{206}\text{Pb}} = 206 \, \text{g/mol} \). 1. Số mol của \( ^{238}\text{U} \): \[ n_{^{238}\text{U}} = \frac{46,97 \cdot 10^{-3}}{238} \approx 1,973 \cdot 10^{-4} \, \text{mol}. \] 2. Số mol của \( ^{206}\text{Pb} \): \[ n_{^{206}\text{Pb}} = \frac{23,15 \cdot 10^{-3}}{206} \approx 1,124 \cdot 10^{-4} \, \text{mol}. \] --- #### **Bước 2: Tính số nguyên tử:** - Số nguyên tử \( N = n \cdot N_A \), với \( N_A = 6,022 \cdot 10^{23} \). 1. Số nguyên tử của \( ^{238}\text{U} \): \[ N_{^{238}\text{U}} = 1,973 \cdot 10^{-4} \cdot 6,022 \cdot 10^{23} \approx 1,188 \cdot 10^{20}. \] 2. Số nguyên tử của \( ^{206}\text{Pb} \): \[ N_{^{206}\text{Pb}} = 1,124 \cdot 10^{-4} \cdot 6,022 \cdot 10^{23} \approx 6,769 \cdot 10^{19}. \] --- #### **Bước 3: Tính \( N_0 \):** \[ N_0 = N_{^{238}\text{U}} + N_{^{206}\text{Pb}}. \] \[ N_0 = 1,188 \cdot 10^{20} + 6,769 \cdot 10^{19} \approx 1,865 \cdot 10^{20}. \] --- #### **Bước 4: Tính tuổi \( t \):** Hằng số phân rã: \[ \lambda = \frac{\ln(2)}{T} = \frac{0,693}{4,47 \cdot 10^9} \approx 1,55 \cdot 10^{-10} \, \text{năm}^{-1}. \] Thay vào công thức: \[ t = \frac{1}{\lambda} \cdot \ln\left(\frac{N_0}{N}\right). \] \[ t = \frac{1}{1,55 \cdot 10^{-10}} \cdot \ln\left(\frac{1,865 \cdot 10^{20}}{1,188 \cdot 10^{20}}\right). \] Tính \( \ln\left(\frac{1,865}{1,188}\right) \): \[ \ln\left(\frac{1,865}{1,188}\right) \approx \ln(1,57) \approx 0,451. \] Do đó: \[ t = \frac{0,451}{1,55 \cdot 10^{-10}} \approx 2,91 \cdot 10^9 \, \text{năm}. \] --- ### **Kết quả: Tuổi của khối đá là \( \mathbf{2,91 \, \text{tỉ năm}}. \)**
### Câu 1 (2.0 điểm) **Viết đoạn văn nghị luận nêu cảm nhận về vẻ đẹp của bức tranh quê trong đoạn thơ** Đoạn thơ của Đoàn Văn Cừ đã vẽ nên một bức tranh quê hương yên bình, thanh tĩnh và đầy chất thơ. Âm thanh “kẽo kẹt” của tiếng võng mang lại sự êm đềm, gợi nhắc những khoảnh khắc thân thuộc trong cuộc sống làng quê Việt Nam. Hình ảnh “con chó ngủ lơ mơ” và “bóng cây lơi lả bên hàng dậu” tạo cảm giác gần gũi, tự nhiên, như thể mọi vật đều đang thả mình theo nhịp sống chậm rãi của làng quê. Cảnh đêm “vắng”, “người im, cảnh lặng tờ” càng làm nổi bật không gian tĩnh lặng, thanh bình, nơi con người và thiên nhiên hòa quyện. Ánh trăng lấp loáng soi sáng tàu cau, bóng con mèo quyện dưới chân thằng bé, tất cả đều được miêu tả đầy thơ mộng, trong trẻo. Bức tranh quê hiện lên không chỉ đẹp ở hình ảnh mà còn đẹp ở cảm xúc, mang đến cho người đọc niềm yêu thương sâu sắc với quê hương. Đoạn thơ gợi nhắc chúng ta trân trọng những giá trị bình dị của cuộc sống, nơi sự yên bình và hồn hậu của làng quê luôn là chốn trở về trong tâm hồn mỗi người. --- ### Câu 2 (4.0 điểm) **Trình bày suy nghĩ về sự nỗ lực hết mình của tuổi trẻ hiện nay** Tuổi trẻ là giai đoạn đẹp nhất trong cuộc đời mỗi con người, bởi đó là quãng thời gian tràn đầy sức sống, nhiệt huyết và khát vọng. Trong bối cảnh xã hội hiện đại, sự nỗ lực hết mình của tuổi trẻ không chỉ là yếu tố quyết định thành công cá nhân mà còn là nền tảng cho sự phát triển của xã hội. Trước hết, nỗ lực hết mình là cách để mỗi cá nhân khẳng định giá trị bản thân và chinh phục ước mơ. Không có thành công nào tự đến mà không qua quá trình cố gắng. Những câu chuyện về những người trẻ vượt khó, như tỷ phú Elon Musk hay “huyền thoại đường chạy” Usain Bolt, là minh chứng rõ ràng cho giá trị của sự nỗ lực. Khi tuổi trẻ dám đặt ra mục tiêu và kiên trì thực hiện, họ không chỉ đạt được thành tựu mà còn truyền cảm hứng cho cộng đồng. Bên cạnh đó, sự nỗ lực của tuổi trẻ còn là động lực thúc đẩy xã hội phát triển. Trong thời đại công nghệ 4.0, những bạn trẻ sáng tạo, dám nghĩ dám làm đã tạo ra những đột phá trong các lĩnh vực như khoa học, giáo dục, kinh tế. Những sáng chế, ý tưởng mới mẻ của họ không chỉ giải quyết các vấn đề hiện tại mà còn mở ra những cơ hội mới cho tương lai. Tuy nhiên, bên cạnh những tấm gương nỗ lực, không ít người trẻ vẫn sống với tâm lý thụ động, dễ hài lòng với hiện tại. Sự thiếu cố gắng không chỉ khiến họ tụt hậu mà còn lãng phí những cơ hội quý báu của tuổi trẻ. Điều này đặt ra yêu cầu về việc rèn luyện ý chí, nghị lực và tinh thần trách nhiệm ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Tóm lại, sự nỗ lực hết mình là yếu tố cốt lõi để tuổi trẻ khẳng định chính mình và đóng góp cho xã hội. Tuổi trẻ chỉ đến một lần trong đời, vì vậy, hãy sống hết mình, làm việc hết mình để khi nhìn lại, mỗi người đều có thể tự hào về những gì mình đã làm được.
Câu 1. Ngôi kể của người kể chuyện trong đoạn trích là ngôi thứ ba. Người kể đứng ngoài câu chuyện, kể lại các sự kiện và miêu tả nhân vật. --- Câu 2. Một số chi tiết về cách ứng xử của chị Bớt Dương cho thấy chị không giận mẹ dù từng bị mẹ phân biệt đối xử: - Khi bà Ngải đến ở chung, chị Bớt rất mừng và sẵn sàng chăm sóc mẹ. - Chị lo lắng và muốn mẹ suy nghĩ kỹ để tránh lặp lại tình huống như với chị Nở. - Khi bà cụ ân hận về việc phân biệt yêu ghét, chị Bớt ôm lấy mẹ và trấn an: “Ô hay! Con có nói gì đâu, sao bu cứ nghĩ ngợi thế nhỉ?”. Câu 3. Qua đoạn trích, nhân vật Bớt hiện lên là một người: - yêu thương mẹ : Dù từng bị phân biệt đối xử, chị vẫn sẵn sàng chăm sóc mẹ khi bà về ở chung. - Bao dung, vị tha: Chị không oán trách mẹ mà còn trấn an mẹ khi bà tỏ ra ân hận. - Tận tụy, chịu thương chịu khó : Chị vừa lo công tác, vừa chăm sóc con cái và gia đình.
Câu 4. Hành động ôm lấy vai mẹ và câu nói của chị Bớt: “Ô hay! Con có nói gì đâu, sao bu cứ nghĩ ngợi thế nhỉ?” có ý nghĩa: - Thể hiện sự vị tha và yêu thương mẹ của chị Bớt, không để bụng những chuyện cũ. - Là hành động an ủi và giúp mẹ vơi bớt nỗi ân hận vì cách đối xử trước đây. - Chứng minh rằng tình cảm mẹ con vẫn gắn bó, vượt qua những rạn nứt trong quá khứ.
Câu 5.Thông điệp: Tình cảm gia đình là điều thiêng liêng, cần được trân trọng và gìn giữ. - Trong cuộc sống hiện đại, sự gắn kết trong gia đình đôi khi bị ảnh hưởng bởi những hiểu lầm hay áp lực cuộc sống. Đoạn trích nhắc nhở chúng ta về lòng bao dung, sự vị tha để hàn gắn các mối quan hệ gia đình. - Gia đình là nơi nương tựa, là chỗ dựa tinh thần trong những lúc khó khăn, như cách bà Ngải tìm về với con gái Bớt sau biến cố.
Câu 1
Phương thức biểu đạt chính: Văn bản sử dụng phương thức biểu đạt biểu cảm
Câu 2
Nội dung văn bản: Văn bản nêu lên sự cần thiết phải nâng niu và trân trọng những điều xung quanh, đồng thời nhấn mạnh rằng tổn thương là một phần của cuộc sống, giúp con người nhận thức được giá trị của những gì mình đang có.
Câu 3
Biện pháp tu từ: Trong đoạn (7), tác giả sử dụng biện pháp tu từ so sánh khi miêu tả các yếu tố của thiên nhiên như mặt đất, đại dương, cánh rừng... với các tính từ "quen tha thứ", "quen độ lượng", "quen trầm mặc". Biện pháp này giúp nhấn mạnh sự kiên nhẫn và khoan dung của thiên nhiên, đồng thời tạo ra cảm giác gần gũi và thân thuộc giữa con người với môi trường.
Câu 4
Giải thích câu văn: Tác giả nói “Thỉnh thoảng bàn chân nên bị gai đâm” để nhấn mạnh rằng đôi khi con người cần trải nghiệm tổn thương để nhận ra giá trị của cuộc sống. Sự đau đớn có thể giúp con người tỉnh thức, suy ngẫm về những gì họ đang có và tạo ra động lực để thay đổi, trân trọng hơn những điều quý giá xung quanh.
Câu 5 Bài học ý nghĩa: Bài học rút ra từ văn bản là con người cần biết yêu thương và trân trọng vạn vật xung quanh. Sự tổn thương có thể là một bài học hỏi c quý giá giúp chúng ta nhận thức được giá trị của cuộc sống, từ đó sống một cách có trách nhiệm hơn với thiên nhiên và những người xung quanh.
Câu 1
Phương thức biểu đạt chính: Văn bản sử dụng phương thức biểu đạt biểu cảm
Câu 2
Nội dung văn bản: Văn bản nêu lên sự cần thiết phải nâng niu và trân trọng những điều xung quanh, đồng thời nhấn mạnh rằng tổn thương là một phần của cuộc sống, giúp con người nhận thức được giá trị của những gì mình đang có.
Câu 3
Biện pháp tu từ: Trong đoạn (7), tác giả sử dụng biện pháp tu từ so sánh khi miêu tả các yếu tố của thiên nhiên như mặt đất, đại dương, cánh rừng... với các tính từ "quen tha thứ", "quen độ lượng", "quen trầm mặc". Biện pháp này giúp nhấn mạnh sự kiên nhẫn và khoan dung của thiên nhiên, đồng thời tạo ra cảm giác gần gũi và thân thuộc giữa con người với môi trường.
Câu 4
Giải thích câu văn: Tác giả nói “Thỉnh thoảng bàn chân nên bị gai đâm” để nhấn mạnh rằng đôi khi con người cần trải nghiệm tổn thương để nhận ra giá trị của cuộc sống. Sự đau đớn có thể giúp con người tỉnh thức, suy ngẫm về những gì họ đang có và tạo ra động lực để thay đổi, trân trọng hơn những điều quý giá xung quanh.
Câu 5 Bài học ý nghĩa: Bài học rút ra từ văn bản là con người cần biết yêu thương và trân trọng vạn vật xung quanh. Sự tổn thương có thể là một bài học hỏi c quý giá giúp chúng ta nhận thức được giá trị của cuộc sống, từ đó sống một cách có trách nhiệm hơn với thiên nhiên và những người xung quanh.
Câu 1
Phương thức biểu đạt chính: Văn bản sử dụng phương thức biểu đạt biểu cảm
Câu 2
Nội dung văn bản: Văn bản nêu lên sự cần thiết phải nâng niu và trân trọng những điều xung quanh, đồng thời nhấn mạnh rằng tổn thương là một phần của cuộc sống, giúp con người nhận thức được giá trị của những gì mình đang có.
Câu 3
Biện pháp tu từ: Trong đoạn (7), tác giả sử dụng biện pháp tu từ so sánh khi miêu tả các yếu tố của thiên nhiên như mặt đất, đại dương, cánh rừng... với các tính từ "quen tha thứ", "quen độ lượng", "quen trầm mặc". Biện pháp này giúp nhấn mạnh sự kiên nhẫn và khoan dung của thiên nhiên, đồng thời tạo ra cảm giác gần gũi và thân thuộc giữa con người với môi trường.
Câu 4
Giải thích câu văn: Tác giả nói “Thỉnh thoảng bàn chân nên bị gai đâm” để nhấn mạnh rằng đôi khi con người cần trải nghiệm tổn thương để nhận ra giá trị của cuộc sống. Sự đau đớn có thể giúp con người tỉnh thức, suy ngẫm về những gì họ đang có và tạo ra động lực để thay đổi, trân trọng hơn những điều quý giá xung quanh.
Câu 5 Bài học ý nghĩa: Bài học rút ra từ văn bản là con người cần biết yêu thương và trân trọng vạn vật xung quanh. Sự tổn thương có thể là một bài học hỏi c quý giá giúp chúng ta nhận thức được giá trị của cuộc sống, từ đó sống một cách có trách nhiệm hơn với thiên nhiên và những người xung quanh.
Câu 1
Phương thức biểu đạt chính: Văn bản sử dụng phương thức biểu đạt biểu cảm
Câu 2
Nội dung văn bản: Văn bản nêu lên sự cần thiết phải nâng niu và trân trọng những điều xung quanh, đồng thời nhấn mạnh rằng tổn thương là một phần của cuộc sống, giúp con người nhận thức được giá trị của những gì mình đang có.
Câu 3
Biện pháp tu từ: Trong đoạn (7), tác giả sử dụng biện pháp tu từ so sánh khi miêu tả các yếu tố của thiên nhiên như mặt đất, đại dương, cánh rừng... với các tính từ "quen tha thứ", "quen độ lượng", "quen trầm mặc". Biện pháp này giúp nhấn mạnh sự kiên nhẫn và khoan dung của thiên nhiên, đồng thời tạo ra cảm giác gần gũi và thân thuộc giữa con người với môi trường.
Câu 4
Giải thích câu văn: Tác giả nói “Thỉnh thoảng bàn chân nên bị gai đâm” để nhấn mạnh rằng đôi khi con người cần trải nghiệm tổn thương để nhận ra giá trị của cuộc sống. Sự đau đớn có thể giúp con người tỉnh thức, suy ngẫm về những gì họ đang có và tạo ra động lực để thay đổi, trân trọng hơn những điều quý giá xung quanh.
Câu 5 Bài học ý nghĩa: Bài học rút ra từ văn bản là con người cần biết yêu thương và trân trọng vạn vật xung quanh. Sự tổn thương có thể là một bài học hỏi c quý giá giúp chúng ta nhận thức được giá trị của cuộc sống, từ đó sống một cách có trách nhiệm hơn với thiên nhiên và những người xung quanh.
Câu 1:
Bài thơ Tự miễn của Hồ Chí Minh là một tác phẩm tiêu biểu thể hiện tinh thần tự răn mình, ý chí kiên định và bản lĩnh sống của Người trong hoàn cảnh khó khăn. Nội dung của bài thơ là lời nhắc nhở bản thân phải giữ vững ý chí, vượt qua mọi thử thách, dù hoàn cảnh khắc nghiệt đến đâu. Hồ Chí Minh viết:
"Nhân sinh như mộng, tự tri chi,
Mãn giá hoa hương, khứ khứ phi.
Lão phu tự miễn, tâm vô quỷ,
Hà úy phù vân, phó vạn kỳ".Bài thơ không chỉ là sự chiêm nghiệm về cuộc đời – ví như giấc mộng thoáng qua, mà còn là lời khẳng định về lối sống thanh cao, trong sáng của tác giả. Câu "Tâm vô quỷ" nhấn mạnh phẩm chất liêm chính, không sợ hãi hay xao động trước những điều phù phiếm. Trong hoàn cảnh bị tù đày, bài thơ là minh chứng rõ nét cho tinh thần thép của Hồ Chí Minh. Qua đó, Người gửi gắm thông điệp rằng: trong mọi nghịch cảnh, con người cần giữ vững ý chí, sống ngay thẳng, không bị lung lay bởi những điều phù du. Tác phẩm không chỉ phản ánh triết lý sống sâu sắc của Hồ Chí Minh mà còn là bài học quý giá về nhân cách và ý chí vượt khó trong cuộc sống.
Câu 2:
Cuộc sống là một hành trình đầy ắp những thử thách. Dù lớn hay nhỏ, mỗi thử thách mà chúng ta đối mặt đều mang đến những bài học quý giá và góp phần định hình con người chúng ta. Thử thách không chỉ là những khó khăn, trở ngại mà còn là cơ hội để chúng ta trưởng thành, khám phá sức mạnh tiềm ẩn của bản thân.
Trước hết, thử thách giúp con người rèn luyện ý chí và bản lĩnh. Như thép phải qua lửa nóng mới trở nên cứng cáp, con người cũng cần đối mặt với những khó khăn để trở nên mạnh mẽ và kiên cường hơn. Những người thành công thường là những người biết chấp nhận và vượt qua thử thách. Steve Jobs, người sáng lập Apple, từng đối mặt với thất bại và bị loại khỏi chính công ty mà ông sáng lập. Tuy nhiên, nhờ ý chí kiên định và không ngừng phấn đấu, ông đã quay lại, biến Apple thành một trong những công ty công nghệ hàng đầu thế giới. Qua đó, chúng ta thấy rằng thử thách chính là cơ hội để con người khám phá năng lực tiềm ẩn và khẳng định giá trị của mình.
Thử thách cũng là người thầy dạy ta những bài học quý giá về cuộc sống. Những thất bại, khó khăn không chỉ giúp chúng ta nhận ra điểm yếu của mình mà còn mang lại kinh nghiệm để sửa chữa và cải thiện. Một người thất bại trong kinh doanh sẽ học được cách quản lý tài chính tốt hơn. Một học sinh thi trượt đại học sẽ nhận ra tầm quan trọng của sự chuẩn bị và nỗ lực. Chính vì vậy, thử thách là chất xúc tác thúc đẩy sự tiến bộ và trưởng thành.
Tuy nhiên, không phải ai cũng dễ dàng vượt qua thử thách. Có những người bị gục ngã, mất niềm tin vào bản thân khi đối mặt với khó khăn. Điều quan trọng là chúng ta cần thay đổi cách nhìn nhận thử thách: không xem chúng như những điều tiêu cực mà coi đó là cơ hội để phát triển. Từ góc độ này, thử thách không còn là trở ngại mà trở thành động lực để chúng ta tiến bước.
Thử thách cũng giúp chúng ta trân trọng những giá trị của cuộc sống. Khi đã vượt qua khó khăn, chúng ta sẽ cảm nhận rõ hơn hạnh phúc của sự thành công, sự an lành và những điều tốt đẹp xung quanh. Chỉ khi trải qua giông bão, con người mới biết quý trọng những ngày trời yên biển lặng. Điều này dạy chúng ta sống biết ơn và không ngừng phấn đấu để hoàn thiện bản thân.
Tóm lại, thử thách là một phần không thể thiếu trong cuộc sống. Chúng không chỉ là trở ngại mà còn là cơ hội để con người rèn luyện ý chí, học hỏi và trưởng thành. Thử thách giúp chúng ta định hình bản thân, khám phá sức mạnh nội tại và trân trọng hơn những giá trị của cuộc sống. Vì vậy, thay vì sợ hãi hay trốn tránh, mỗi người hãy đối mặt với thử thách bằng niềm tin và sự kiên trì. Đó chính là chìa khóa để vượt qua mọi khó khăn và đạt đến thành công.