Nguyễn Tấn Dũng

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Nguyễn Tấn Dũng
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

Câu 1 Có ai trên đời này lại không muốn tự quyết định cuộc đời mình? Có ai muốn nhất nhất nghe theo sự chỉ huy của người khác? Muốn thế chỉ có cách ta phải “sống ở thế chủ động”. Chủ động – có thể được hiểu là tự mình lập kế hoạch, thực hiện, và chịu trách nhiệm với mọi vấn đề trong cuộc sống mà không chịu sự chi phối bởi hoàn cảnh bên ngoài. Có thể ví cuộc sống mỗi chúng ta như một chặng đường, thì chủ động chính là chúng ta biết được hướng đi, tốc độ, điểm dừng, đích đến, chính vì thế mà người chủ động thường dễ thành công hơn. Chỉ có sống trong thế chủ động, Bác mới hướng mình sang phương Tây, để tìm hiểu cuộc sống nhân dân bên đó, để tìm ra con đường cứu nước cứu dân. Chỉ có sống và làm chủ bản thân, Bill Gates hay Mark mới bỏ ngang trường đại học danh giá nhất nước Mỹ để thực hiện ước mơ của mình. Và cũng chỉ có thế chủ động, bất cứ ai trong chúng ta mới có thể sẵn sàng đối diện với sóng gió. Người xưa đã từng than thở “gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu?”, thế hệ thanh niên của chúng ta ngày hôm nay không thể bị động như thế, không thể đóng vai “hành khách” trên chuyến xe mà người khác cầm lái. Có thể chúng ta chưa làm được điều gì to lớn, nhưng ít nhất sáng mai ăn gì, học như thế nào, thi trường gì, chúng ta hãy chủ động quyết định. Người chủ động phải là người luôn cầu tiến, ham học hỏi, rèn luyện và chuẩn bị hành trang cần thiết cho chuyến đi của mình. Làm gì có người leo núi nào lại không chuẩn bị thể lực, đồ dùng, làm gì có người giương buồm ra khơi nào mà không biết trước hướng đi. Điều đó có nghĩa, chủ động nhưng không liều lĩnh, chủ động cần tỉnh táo, tham khảo ý kiến mọi người, hạn chế mức thấp nhất sai lầm, thất bại, sẵn sàng đối diện với khó khăn.

câu 2 

Nguyễn Trãi là đại thi hào dân tộc, là danh nhân văn hóa của Đại Việt, đồng thời ông còn là tác giả áng thiên cổ hùng văn "Bình ngô đại cáo". Ngoài ngòi bút sắc bén, lập luận đanh thép với dẫn chứng thuyết phục trong những áng văn chính luận, ta còn bắt gặp một Nguyễn Trãi với phong thái nhàn tản, giao cảm hòa hợp cùng thiên nhiên trong "Bảo kính cảnh giới 43". Không chỉ mang chất trữ tình sâu sắc, bài thơ chứa đựng cả nội dung mang tính giáo huấn người đời, ngời sáng tâm hồn lí tưởng của bậc thi sĩ lớn Ức Trai.

Trước hết, bài thơ thể hiện tình yêu cũng như tâm hồn tinh tế và sự giao cảm mạnh mẽ đối với thiên nhiên của tác giả Nguyễn Trãi. Nhân vật trữ tình xuất hiện trong phong thái ung dung tự tại: "Rồi hóng mát thuở ngày trường". Như chúng ta đã biết, Nguyễn Trãi là nhà thơ nặng lòng với thiên nhiên và luôn mở lòng với thiên nhiên trong mọi hoàn cảnh, nhưng khoảnh khắc rảnh rỗi vào một ngày khí trời mát mẻ, trong lành thì quả là hiếm hoi. Nếu người xưa thường thiên về vịnh cảnh thì Nguyễn Trãi lại vận dụng bút pháp tả. Và rồi bằng sự quan sát tinh tế của nhân vật trữ tình, bức tranh thiên nhiên đầy sức sống đã hiện lên:

"Rồi hóng mát thuở ngày trường

Hòe lục đùn đùn tán rợp giương

 

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương

Những sắc màu của cảnh vật hiện lên trong sự giao hòa: Màu lục của lá hòe cùng màu đỏ của hoa thạch lựu đan cài vào nhau trong ánh mặt trời buổi chiều. Đặc biệt hơn, cảnh vật được miêu tả trong sự chuyển động tạo nên một bức tranh căng tràn sức sống. Tác giả đã sử dụng những động từ mạnh: "đùn đùn", "trương", "phun" gợi nên sự tràn đầy và sức sống từ nội tại đang ứa căng và không kìm lại được và phải bộc phát ra bên ngoài. Đại thi hào Nguyễn Du cũng đã từng miêu tả cảnh sắc mùa hè bằng sắc hoa lựu: "Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông" (trích "Truyện Kiều"). Với từ "lập lòe", tác giả Nguyễn Du đã tạo nên sự độc đáo trong việc tạo hình sắc, còn Nguyễn Trãi lại nhấn mạnh sức sống của cảnh vật, thể hiện rõ cái nhìn tinh tế đối với cảnh vật của hai thi sĩ tài ba. Thi nhân đã vận dụng nhiều giác quan: thị giác, thính giác và khứu giác kết hợp cùng trí tưởng tượng phong phú để đón nhận vẻ đẹp của thiên nhiên, cho thấy sự giao cảm mạnh mẽ nhưng vô cùng tinh tế của Ức Trai đối với cảnh vật.

Không chỉ dừng lại ở đó, bên cạnh màu sắc tác giả còn tô điểm cho bức tranh thiên nhiên âm thanh, đường nét hệt như một người họa sĩ tài ba tạo nên một kiệt tác có hồn của tạo vật. "Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ" với sự kết hợp của động từ "phun" và "thức"- màu vẻ, dáng vẻ, câu thơ đã diễn tả thành công cái hồn và thần thái của cảnh vật. Cảnh vật mùa hè còn được miêu tả qua hình ảnh rất đặc trưng: Đóa sen trong ao đã tỏa hương thơm ngát, tạo nên một bức tranh hài hòa về màu sắc và hương vị.

Bài thơ còn khắc họa bức chân dung của một con người luôn hết lòng vì dân, vì nước. Mặc dù đang hòa mình đắm say trong vẻ đẹp sinh động, đáng yêu và tràn trề sức sống của thiên nhiên nhưng tác giả vẫn hướng đôi mắt quan sát của mình đến cuộc sống của con người:

"Lao xao chợ cá làng ngư phủ

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dươn
 

Bức tranh mùa hè được bổ sung thêm những nét vẽ về cuộc sống của con người với thanh âm của "lao xao" của chợ cá tại một làng chài ven sông cùng tiếng dắng dỏi của cầm ve. Cuộc sống yên vui, no đủ của người dân đã gợi lên trong lòng tác giả một mong ước hết sức cao đẹp:

"Dẽ có Ngu Cầm đàn một tiếng

Dân giàu đủ, khắp đòi phương"

Tác giả mong ước có được chiếc đàn của vua Thuấn để gảy nên khúc Nam Phong ca ngợi đời sống ấm no hạnh phúc của nhân dân. Câu thơ kết thúc bài được kiến tạo theo cách ngắt nhịp 3/3, thể hiện rõ sự rồn nén cảm xúc của bài thơ. Mở đầu bằng bức tranh thiên nhiên giàu hình ảnh, màu sắc, hình khối, đường nét nhưng kết thúc bằng câu thơ nói về con người cho thấy điểm kết mà tác giả muốn hướng đến không phải ở thiên nhiên tạo vật mà chính ở con người. Điều này đã thể hiện rõ tâm hồn hết sức cao cả và vĩ đại của Nguyễn Trãi- vị anh hùng dân tộc luôn mong muốn cho dân được ấm no, hạnh phúc.

Như vậy, thông qua bài thơ, chúng ta có thể thấy được tình yêu cùng sự giao hòa đối với thiên nhiên của tác giả, giống như ông đã từng bộc bạch: "Non nước cùng ta đã có duyên" ("Tự thán"- bài 4). Là một thi sĩ, ông đến với thiên nhiên trong mọi hoàn cảnh nhưng cuối cùng, tâm hồn của ông vẫn hướng đến nhân dân, đến đất nước. Qua lời tâm sự và mong ước về cuộc sống của nhân dân, độc giả có thể thấy được tâm hồn và lí tưởng cao đẹp của tác giả Nguyễn Trãi. Tình yêu thiên nhiên, tạo vật đã quyện hòa và làm ngời sáng hơn nữa tình yêu đối với đất nước, nhân dân.

Câu 1 Có ai trên đời này lại không muốn tự quyết định cuộc đời mình? Có ai muốn nhất nhất nghe theo sự chỉ huy của người khác? Muốn thế chỉ có cách ta phải “sống ở thế chủ động”. Chủ động – có thể được hiểu là tự mình lập kế hoạch, thực hiện, và chịu trách nhiệm với mọi vấn đề trong cuộc sống mà không chịu sự chi phối bởi hoàn cảnh bên ngoài. Có thể ví cuộc sống mỗi chúng ta như một chặng đường, thì chủ động chính là chúng ta biết được hướng đi, tốc độ, điểm dừng, đích đến, chính vì thế mà người chủ động thường dễ thành công hơn. Chỉ có sống trong thế chủ động, Bác mới hướng mình sang phương Tây, để tìm hiểu cuộc sống nhân dân bên đó, để tìm ra con đường cứu nước cứu dân. Chỉ có sống và làm chủ bản thân, Bill Gates hay Mark mới bỏ ngang trường đại học danh giá nhất nước Mỹ để thực hiện ước mơ của mình. Và cũng chỉ có thế chủ động, bất cứ ai trong chúng ta mới có thể sẵn sàng đối diện với sóng gió. Người xưa đã từng than thở “gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu?”, thế hệ thanh niên của chúng ta ngày hôm nay không thể bị động như thế, không thể đóng vai “hành khách” trên chuyến xe mà người khác cầm lái. Có thể chúng ta chưa làm được điều gì to lớn, nhưng ít nhất sáng mai ăn gì, học như thế nào, thi trường gì, chúng ta hãy chủ động quyết định. Người chủ động phải là người luôn cầu tiến, ham học hỏi, rèn luyện và chuẩn bị hành trang cần thiết cho chuyến đi của mình. Làm gì có người leo núi nào lại không chuẩn bị thể lực, đồ dùng, làm gì có người giương buồm ra khơi nào mà không biết trước hướng đi. Điều đó có nghĩa, chủ động nhưng không liều lĩnh, chủ động cần tỉnh táo, tham khảo ý kiến mọi người, hạn chế mức thấp nhất sai lầm, thất bại, sẵn sàng đối diện với khó khăn.

câu 2 

Nguyễn Trãi là đại thi hào dân tộc, là danh nhân văn hóa của Đại Việt, đồng thời ông còn là tác giả áng thiên cổ hùng văn "Bình ngô đại cáo". Ngoài ngòi bút sắc bén, lập luận đanh thép với dẫn chứng thuyết phục trong những áng văn chính luận, ta còn bắt gặp một Nguyễn Trãi với phong thái nhàn tản, giao cảm hòa hợp cùng thiên nhiên trong "Bảo kính cảnh giới 43". Không chỉ mang chất trữ tình sâu sắc, bài thơ chứa đựng cả nội dung mang tính giáo huấn người đời, ngời sáng tâm hồn lí tưởng của bậc thi sĩ lớn Ức Trai.

Trước hết, bài thơ thể hiện tình yêu cũng như tâm hồn tinh tế và sự giao cảm mạnh mẽ đối với thiên nhiên của tác giả Nguyễn Trãi. Nhân vật trữ tình xuất hiện trong phong thái ung dung tự tại: "Rồi hóng mát thuở ngày trường". Như chúng ta đã biết, Nguyễn Trãi là nhà thơ nặng lòng với thiên nhiên và luôn mở lòng với thiên nhiên trong mọi hoàn cảnh, nhưng khoảnh khắc rảnh rỗi vào một ngày khí trời mát mẻ, trong lành thì quả là hiếm hoi. Nếu người xưa thường thiên về vịnh cảnh thì Nguyễn Trãi lại vận dụng bút pháp tả. Và rồi bằng sự quan sát tinh tế của nhân vật trữ tình, bức tranh thiên nhiên đầy sức sống đã hiện lên:

"Rồi hóng mát thuở ngày trường

Hòe lục đùn đùn tán rợp giương

 

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương

Những sắc màu của cảnh vật hiện lên trong sự giao hòa: Màu lục của lá hòe cùng màu đỏ của hoa thạch lựu đan cài vào nhau trong ánh mặt trời buổi chiều. Đặc biệt hơn, cảnh vật được miêu tả trong sự chuyển động tạo nên một bức tranh căng tràn sức sống. Tác giả đã sử dụng những động từ mạnh: "đùn đùn", "trương", "phun" gợi nên sự tràn đầy và sức sống từ nội tại đang ứa căng và không kìm lại được và phải bộc phát ra bên ngoài. Đại thi hào Nguyễn Du cũng đã từng miêu tả cảnh sắc mùa hè bằng sắc hoa lựu: "Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông" (trích "Truyện Kiều"). Với từ "lập lòe", tác giả Nguyễn Du đã tạo nên sự độc đáo trong việc tạo hình sắc, còn Nguyễn Trãi lại nhấn mạnh sức sống của cảnh vật, thể hiện rõ cái nhìn tinh tế đối với cảnh vật của hai thi sĩ tài ba. Thi nhân đã vận dụng nhiều giác quan: thị giác, thính giác và khứu giác kết hợp cùng trí tưởng tượng phong phú để đón nhận vẻ đẹp của thiên nhiên, cho thấy sự giao cảm mạnh mẽ nhưng vô cùng tinh tế của Ức Trai đối với cảnh vật.

Không chỉ dừng lại ở đó, bên cạnh màu sắc tác giả còn tô điểm cho bức tranh thiên nhiên âm thanh, đường nét hệt như một người họa sĩ tài ba tạo nên một kiệt tác có hồn của tạo vật. "Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ" với sự kết hợp của động từ "phun" và "thức"- màu vẻ, dáng vẻ, câu thơ đã diễn tả thành công cái hồn và thần thái của cảnh vật. Cảnh vật mùa hè còn được miêu tả qua hình ảnh rất đặc trưng: Đóa sen trong ao đã tỏa hương thơm ngát, tạo nên một bức tranh hài hòa về màu sắc và hương vị.

Bài thơ còn khắc họa bức chân dung của một con người luôn hết lòng vì dân, vì nước. Mặc dù đang hòa mình đắm say trong vẻ đẹp sinh động, đáng yêu và tràn trề sức sống của thiên nhiên nhưng tác giả vẫn hướng đôi mắt quan sát của mình đến cuộc sống của con người:

"Lao xao chợ cá làng ngư phủ

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dươn
 

Bức tranh mùa hè được bổ sung thêm những nét vẽ về cuộc sống của con người với thanh âm của "lao xao" của chợ cá tại một làng chài ven sông cùng tiếng dắng dỏi của cầm ve. Cuộc sống yên vui, no đủ của người dân đã gợi lên trong lòng tác giả một mong ước hết sức cao đẹp:

"Dẽ có Ngu Cầm đàn một tiếng

Dân giàu đủ, khắp đòi phương"

Tác giả mong ước có được chiếc đàn của vua Thuấn để gảy nên khúc Nam Phong ca ngợi đời sống ấm no hạnh phúc của nhân dân. Câu thơ kết thúc bài được kiến tạo theo cách ngắt nhịp 3/3, thể hiện rõ sự rồn nén cảm xúc của bài thơ. Mở đầu bằng bức tranh thiên nhiên giàu hình ảnh, màu sắc, hình khối, đường nét nhưng kết thúc bằng câu thơ nói về con người cho thấy điểm kết mà tác giả muốn hướng đến không phải ở thiên nhiên tạo vật mà chính ở con người. Điều này đã thể hiện rõ tâm hồn hết sức cao cả và vĩ đại của Nguyễn Trãi- vị anh hùng dân tộc luôn mong muốn cho dân được ấm no, hạnh phúc.

Như vậy, thông qua bài thơ, chúng ta có thể thấy được tình yêu cùng sự giao hòa đối với thiên nhiên của tác giả, giống như ông đã từng bộc bạch: "Non nước cùng ta đã có duyên" ("Tự thán"- bài 4). Là một thi sĩ, ông đến với thiên nhiên trong mọi hoàn cảnh nhưng cuối cùng, tâm hồn của ông vẫn hướng đến nhân dân, đến đất nước. Qua lời tâm sự và mong ước về cuộc sống của nhân dân, độc giả có thể thấy được tâm hồn và lí tưởng cao đẹp của tác giả Nguyễn Trãi. Tình yêu thiên nhiên, tạo vật đã quyện hòa và làm ngời sáng hơn nữa tình yêu đối với đất nước, nhân dân.

Câu 1 Văn bản trên được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. 
Câu 2 

Những hình ảnh nói về nếp sinh hoạt hàng ngày đạm bạc, thanh cao của tác giả là: "một mai, một cuốc, một cần câu", "thân áo vải", "cơm đạm bạc".

Những hình ảnh này thể hiện sự giản dị, không màng danh lợi của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

 

Câu 3 

Biện pháp tu từ liệt kê được sử dụng trong hai câu thơ "Một mai, một cuốc, một cần câu/ Thân áo vải, cơm đạm bạc" nhằm nhấn mạnh sự đơn sơ, giản dị trong cuộc sống của tác giả. Liệt kê ba vật dụng lao động quen thuộc (mai, cuốc, cần câu) và hai yếu tố thiết yếu trong cuộc sống (áo vái, cơm đạm bạc) tạo nên một bức tranh chân thực, sống động về cuộc sống thanh bạch, tự tại của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Việc liệt kê như thế còn góp phần làm nổi bật vẻ

đẹp tâm hồn của ông.

 

câu 4 

Quan niệm về đại - khôn của

Nguyễn Bỉnh Khiêm trong hai câu thơ

"Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ/ Người khôn, người đến chốn lao xao* thể hiện sự lựa chọn lối sống khác biệt. Ông cho rằng người khôn tìm đến những nơi ồn ào, náo nhiệt, tranh giành danh lợi; còn ông, với sự tự nhận mình là người dại, lại chọn cuộc sống thanh tĩnh, an nhiên, xa lánh chồn thị phi. Quan niệm này thể hiện sự tỉnh táo, khước từ danh lợi, hướng đến cuộc sống an nhiên tự tại của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

 Câu 5 Nguyễn Bình Khiêm là một nhân vật lịch sử tiêu biểu với về đẹp nhân cách cao quý. Ông sống giản dị, đạm bạc, không màng danh lợi, luôn hướng đến cuộc sống thanh cao, tự tại. Sự lựa chọn cuộc sống an nhiên, xa lánh chốn thị phí của ông thế hiện một tâm hỗn thanh thần, một khí phách hiên ngang, bất khuất. Ông là tấm gương sáng về lối sống và nhân cách đáng để mọi người noi theo

 

Câu 1 Văn bản trên được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. 
Câu 2 

Những hình ảnh nói về nếp sinh hoạt hàng ngày đạm bạc, thanh cao của tác giả là: "một mai, một cuốc, một cần câu", "thân áo vải", "cơm đạm bạc".

Những hình ảnh này thể hiện sự giản dị, không màng danh lợi của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

 

Câu 3 

Biện pháp tu từ liệt kê được sử dụng trong hai câu thơ "Một mai, một cuốc, một cần câu/ Thân áo vải, cơm đạm bạc" nhằm nhấn mạnh sự đơn sơ, giản dị trong cuộc sống của tác giả. Liệt kê ba vật dụng lao động quen thuộc (mai, cuốc, cần câu) và hai yếu tố thiết yếu trong cuộc sống (áo vái, cơm đạm bạc) tạo nên một bức tranh chân thực, sống động về cuộc sống thanh bạch, tự tại của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Việc liệt kê như thế còn góp phần làm nổi bật vẻ

đẹp tâm hồn của ông.

 

câu 4 

Quan niệm về đại - khôn của

Nguyễn Bỉnh Khiêm trong hai câu thơ

"Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ/ Người khôn, người đến chốn lao xao* thể hiện sự lựa chọn lối sống khác biệt. Ông cho rằng người khôn tìm đến những nơi ồn ào, náo nhiệt, tranh giành danh lợi; còn ông, với sự tự nhận mình là người dại, lại chọn cuộc sống thanh tĩnh, an nhiên, xa lánh chồn thị phi. Quan niệm này thể hiện sự tỉnh táo, khước từ danh lợi, hướng đến cuộc sống an nhiên tự tại của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

 Câu 5 Nguyễn Bình Khiêm là một nhân vật lịch sử tiêu biểu với về đẹp nhân cách cao quý. Ông sống giản dị, đạm bạc, không màng danh lợi, luôn hướng đến cuộc sống thanh cao, tự tại. Sự lựa chọn cuộc sống an nhiên, xa lánh chốn thị phí của ông thế hiện một tâm hỗn thanh thần, một khí phách hiên ngang, bất khuất. Ông là tấm gương sáng về lối sống và nhân cách đáng để mọi người noi theo

 

Câu 1 Văn bản trên được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. 
Câu 2 

Những hình ảnh nói về nếp sinh hoạt hàng ngày đạm bạc, thanh cao của tác giả là: "một mai, một cuốc, một cần câu", "thân áo vải", "cơm đạm bạc".

Những hình ảnh này thể hiện sự giản dị, không màng danh lợi của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

 

Câu 3 

Biện pháp tu từ liệt kê được sử dụng trong hai câu thơ "Một mai, một cuốc, một cần câu/ Thân áo vải, cơm đạm bạc" nhằm nhấn mạnh sự đơn sơ, giản dị trong cuộc sống của tác giả. Liệt kê ba vật dụng lao động quen thuộc (mai, cuốc, cần câu) và hai yếu tố thiết yếu trong cuộc sống (áo vái, cơm đạm bạc) tạo nên một bức tranh chân thực, sống động về cuộc sống thanh bạch, tự tại của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Việc liệt kê như thế còn góp phần làm nổi bật vẻ

đẹp tâm hồn của ông.

 

câu 4 

Quan niệm về đại - khôn của

Nguyễn Bỉnh Khiêm trong hai câu thơ

"Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ/ Người khôn, người đến chốn lao xao* thể hiện sự lựa chọn lối sống khác biệt. Ông cho rằng người khôn tìm đến những nơi ồn ào, náo nhiệt, tranh giành danh lợi; còn ông, với sự tự nhận mình là người dại, lại chọn cuộc sống thanh tĩnh, an nhiên, xa lánh chồn thị phi. Quan niệm này thể hiện sự tỉnh táo, khước từ danh lợi, hướng đến cuộc sống an nhiên tự tại của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

 Câu 5 Nguyễn Bình Khiêm là một nhân vật lịch sử tiêu biểu với về đẹp nhân cách cao quý. Ông sống giản dị, đạm bạc, không màng danh lợi, luôn hướng đến cuộc sống thanh cao, tự tại. Sự lựa chọn cuộc sống an nhiên, xa lánh chốn thị phí của ông thế hiện một tâm hỗn thanh thần, một khí phách hiên ngang, bất khuất. Ông là tấm gương sáng về lối sống và nhân cách đáng để mọi người noi theo

 

Câu 1 Văn bản trên được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. 
Câu 2 

Những hình ảnh nói về nếp sinh hoạt hàng ngày đạm bạc, thanh cao của tác giả là: "một mai, một cuốc, một cần câu", "thân áo vải", "cơm đạm bạc".

Những hình ảnh này thể hiện sự giản dị, không màng danh lợi của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

 

Câu 3 

Biện pháp tu từ liệt kê được sử dụng trong hai câu thơ "Một mai, một cuốc, một cần câu/ Thân áo vải, cơm đạm bạc" nhằm nhấn mạnh sự đơn sơ, giản dị trong cuộc sống của tác giả. Liệt kê ba vật dụng lao động quen thuộc (mai, cuốc, cần câu) và hai yếu tố thiết yếu trong cuộc sống (áo vái, cơm đạm bạc) tạo nên một bức tranh chân thực, sống động về cuộc sống thanh bạch, tự tại của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Việc liệt kê như thế còn góp phần làm nổi bật vẻ

đẹp tâm hồn của ông.

 

câu 4 

Quan niệm về đại - khôn của

Nguyễn Bỉnh Khiêm trong hai câu thơ

"Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ/ Người khôn, người đến chốn lao xao* thể hiện sự lựa chọn lối sống khác biệt. Ông cho rằng người khôn tìm đến những nơi ồn ào, náo nhiệt, tranh giành danh lợi; còn ông, với sự tự nhận mình là người dại, lại chọn cuộc sống thanh tĩnh, an nhiên, xa lánh chồn thị phi. Quan niệm này thể hiện sự tỉnh táo, khước từ danh lợi, hướng đến cuộc sống an nhiên tự tại của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

 Câu 5 Nguyễn Bình Khiêm là một nhân vật lịch sử tiêu biểu với về đẹp nhân cách cao quý. Ông sống giản dị, đạm bạc, không màng danh lợi, luôn hướng đến cuộc sống thanh cao, tự tại. Sự lựa chọn cuộc sống an nhiên, xa lánh chốn thị phí của ông thế hiện một tâm hỗn thanh thần, một khí phách hiên ngang, bất khuất. Ông là tấm gương sáng về lối sống và nhân cách đáng để mọi người noi theo

 

Câu 1 Văn bản trên được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. 
Câu 2 

Những hình ảnh nói về nếp sinh hoạt hàng ngày đạm bạc, thanh cao của tác giả là: "một mai, một cuốc, một cần câu", "thân áo vải", "cơm đạm bạc".

Những hình ảnh này thể hiện sự giản dị, không màng danh lợi của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

 

Câu 3 

Biện pháp tu từ liệt kê được sử dụng trong hai câu thơ "Một mai, một cuốc, một cần câu/ Thân áo vải, cơm đạm bạc" nhằm nhấn mạnh sự đơn sơ, giản dị trong cuộc sống của tác giả. Liệt kê ba vật dụng lao động quen thuộc (mai, cuốc, cần câu) và hai yếu tố thiết yếu trong cuộc sống (áo vái, cơm đạm bạc) tạo nên một bức tranh chân thực, sống động về cuộc sống thanh bạch, tự tại của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Việc liệt kê như thế còn góp phần làm nổi bật vẻ

đẹp tâm hồn của ông.

 

câu 4 

Quan niệm về đại - khôn của

Nguyễn Bỉnh Khiêm trong hai câu thơ

"Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ/ Người khôn, người đến chốn lao xao* thể hiện sự lựa chọn lối sống khác biệt. Ông cho rằng người khôn tìm đến những nơi ồn ào, náo nhiệt, tranh giành danh lợi; còn ông, với sự tự nhận mình là người dại, lại chọn cuộc sống thanh tĩnh, an nhiên, xa lánh chồn thị phi. Quan niệm này thể hiện sự tỉnh táo, khước từ danh lợi, hướng đến cuộc sống an nhiên tự tại của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

 Câu 5 Nguyễn Bình Khiêm là một nhân vật lịch sử tiêu biểu với về đẹp nhân cách cao quý. Ông sống giản dị, đạm bạc, không màng danh lợi, luôn hướng đến cuộc sống thanh cao, tự tại. Sự lựa chọn cuộc sống an nhiên, xa lánh chốn thị phí của ông thế hiện một tâm hỗn thanh thần, một khí phách hiên ngang, bất khuất. Ông là tấm gương sáng về lối sống và nhân cách đáng để mọi người noi theo

 

Câu 1 Văn bản trên được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. 
Câu 2 

Những hình ảnh nói về nếp sinh hoạt hàng ngày đạm bạc, thanh cao của tác giả là: "một mai, một cuốc, một cần câu", "thân áo vải", "cơm đạm bạc".

Những hình ảnh này thể hiện sự giản dị, không màng danh lợi của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

 

Câu 3 

Biện pháp tu từ liệt kê được sử dụng trong hai câu thơ "Một mai, một cuốc, một cần câu/ Thân áo vải, cơm đạm bạc" nhằm nhấn mạnh sự đơn sơ, giản dị trong cuộc sống của tác giả. Liệt kê ba vật dụng lao động quen thuộc (mai, cuốc, cần câu) và hai yếu tố thiết yếu trong cuộc sống (áo vái, cơm đạm bạc) tạo nên một bức tranh chân thực, sống động về cuộc sống thanh bạch, tự tại của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Việc liệt kê như thế còn góp phần làm nổi bật vẻ

đẹp tâm hồn của ông.

 

câu 4 

Quan niệm về đại - khôn của

Nguyễn Bỉnh Khiêm trong hai câu thơ

"Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ/ Người khôn, người đến chốn lao xao* thể hiện sự lựa chọn lối sống khác biệt. Ông cho rằng người khôn tìm đến những nơi ồn ào, náo nhiệt, tranh giành danh lợi; còn ông, với sự tự nhận mình là người dại, lại chọn cuộc sống thanh tĩnh, an nhiên, xa lánh chồn thị phi. Quan niệm này thể hiện sự tỉnh táo, khước từ danh lợi, hướng đến cuộc sống an nhiên tự tại của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

 Câu 5 Nguyễn Bình Khiêm là một nhân vật lịch sử tiêu biểu với về đẹp nhân cách cao quý. Ông sống giản dị, đạm bạc, không màng danh lợi, luôn hướng đến cuộc sống thanh cao, tự tại. Sự lựa chọn cuộc sống an nhiên, xa lánh chốn thị phí của ông thế hiện một tâm hỗn thanh thần, một khí phách hiên ngang, bất khuất. Ông là tấm gương sáng về lối sống và nhân cách đáng để mọi người noi theo

 

Câu 1 Văn bản trên được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. 
Câu 2 

Những hình ảnh nói về nếp sinh hoạt hàng ngày đạm bạc, thanh cao của tác giả là: "một mai, một cuốc, một cần câu", "thân áo vải", "cơm đạm bạc".

Những hình ảnh này thể hiện sự giản dị, không màng danh lợi của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

 

Câu 3 

Biện pháp tu từ liệt kê được sử dụng trong hai câu thơ "Một mai, một cuốc, một cần câu/ Thân áo vải, cơm đạm bạc" nhằm nhấn mạnh sự đơn sơ, giản dị trong cuộc sống của tác giả. Liệt kê ba vật dụng lao động quen thuộc (mai, cuốc, cần câu) và hai yếu tố thiết yếu trong cuộc sống (áo vái, cơm đạm bạc) tạo nên một bức tranh chân thực, sống động về cuộc sống thanh bạch, tự tại của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Việc liệt kê như thế còn góp phần làm nổi bật vẻ

đẹp tâm hồn của ông.

 

câu 4 

Quan niệm về đại - khôn của

Nguyễn Bỉnh Khiêm trong hai câu thơ

"Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ/ Người khôn, người đến chốn lao xao* thể hiện sự lựa chọn lối sống khác biệt. Ông cho rằng người khôn tìm đến những nơi ồn ào, náo nhiệt, tranh giành danh lợi; còn ông, với sự tự nhận mình là người dại, lại chọn cuộc sống thanh tĩnh, an nhiên, xa lánh chồn thị phi. Quan niệm này thể hiện sự tỉnh táo, khước từ danh lợi, hướng đến cuộc sống an nhiên tự tại của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

 Câu 5 Nguyễn Bình Khiêm là một nhân vật lịch sử tiêu biểu với về đẹp nhân cách cao quý. Ông sống giản dị, đạm bạc, không màng danh lợi, luôn hướng đến cuộc sống thanh cao, tự tại. Sự lựa chọn cuộc sống an nhiên, xa lánh chốn thị phí của ông thế hiện một tâm hỗn thanh thần, một khí phách hiên ngang, bất khuất. Ông là tấm gương sáng về lối sống và nhân cách đáng để mọi người noi theo