

Trương Thùy An
Giới thiệu về bản thân



































Câu 1.
- Hăm-lét cho diễn một vở kịch tái hiện lại vụ ám sát vua cha đúng như lời hồn ma kể, nhằm thử phản ứng của vua Clô-đi-út để xác nhận sự thật. Khi thấy Clô-đi-út bối rối, bỏ đi giữa chừng, Hăm-lét tin rằng hồn ma nói đúng và quyết tâm thực hiện hành động trả thù.
Câu 2.
“Đổ thuốc độc vào tai vua đang ngủ.”
Câu 3.
-Giữa Hăm-lét và vua Clô-đi-út, cụ thể là xung đột giữa chính nghĩa và tội ác, giữa kẻ đi tìm sự thật và kẻ giấu giếm tội lỗi.
- Vì Hăm-lét nghi ngờ Clô-đi-út giết cha mình, nên dùng nghệ thuật (vở tuồng) để vạch trần sự thật. Phản ứng sợ hãi, bỏ đi của Clô-đi-út đã tố cáo tội ác của hắn.
Câu 4.
Lời thoại này thể hiện nội tâm giằng xé, giận dữ và quyết liệt của Hăm-lét.Sau khi xác nhận sự thật tội ác của Clô-đi-út, chàng rơi vào trạng thái phẫn nộ tột độ, sẵn sàng làm điều khủng khiếp để trả thù.
Câu 5.
Văn bản gợi cho em suy nghĩ sâu sắc về sự đấu tranh giữa công lý và tội ác. Hăm-lét đại diện cho công lý, phải vượt qua nhiều dằn vặt, đau đớn để đi đến hành động.Văn bản cho thấy tinh thần nhân văn sâu sắc, khẳng định lẽ phải sẽ chiến thắng, và tội ác dù che giấu đến đâu cũng sẽ bị ánh sáng sự thật phơi bày.
Câu 1:
-PTBĐ chính : nghị luận
Câu 2:
-Văn bản bàn về vai trò, ý nghĩa của lao động.
Câu 3:
-Bằng chứng được sử dụng:
Tác giả đưa ra các ví dụ trong tự nhiên như:
+Chim yến khi lớn phải tự kiếm mồi.
+Hổ và sư tử cũng phải tự săn mồi để sống.
-Nhận xét:
Đây là những bằng chứng cụ thể, gần gũi và sinh động, được chọn lựa từ thực tế thiên nhiên, giúp người đọc dễ hình dung và thuyết phục hơn về quy luật lao động tự nhiên của muôn loài.
Câu 4:
-Nếu con người hiểu được niềm vui, ý nghĩa của lao động; coi lao động là cống hiến, vun đắp, là khám phá cuộc sống thì người đó sẽ hạnh phúc – ngay cả khi họ phải lao động vất vả, nhọc nhằn. Ngược lại nếu con người không nhận ra niềm vui, ý nghĩa của lao động; coi lao động là nô dịch, khổ sai, là đày ải thì người đó sẽ thấy bất hạnh ngay cả khi họ lao động không quá vất vả. Vì vậy, cần nhận thức và có thái độ đúng đắn về lao động.
Câu 5:
Hiện nay vẫn có những người, đặc biệt là một số bạn trẻ, ngại lao động chân tay hoặc những công việc giản đơn, cho rằng đó là việc thấp kém, không xứng đáng. Họ chỉ muốn làm việc nhẹ nhàng, lương cao mà không quan tâm đến giá trị thật sự của lao động. Điều này thể hiện sự thiếu trân trọng lao động và nhận thức lệch lạc về ý nghĩa cũng như vai trò của công việc trong cuộc sống.
Trong dòng chảy không ngừng của thời đại toàn cầu hóa và hiện đại hóa, đời sống xã hội có nhiều biến chuyển mạnh mẽ, kéo theo sự thay đổi trong cách sống, suy nghĩ và giá trị của con người. Tuy nhiên, giữa muôn vàn điều mới mẻ đó, việc gìn giữ và bảo vệ những giá trị văn hóa truyền thống vẫn luôn là một nhiệm vụ thiết yếu, là sợi dây kết nối quá khứ với hiện tại và tương lai, góp phần làm nên bản sắc riêng biệt của mỗi dân tộc.
Văn hóa truyền thống là kết tinh của lịch sử hàng nghìn năm mà ông cha ta gây dựng, được thể hiện qua những phong tục tập quán, tín ngưỡng, lễ hội, ẩm thực, trang phục, kiến trúc, văn học dân gian… Đó là “phần hồn” của dân tộc – nơi lưu giữ những giá trị nhân văn sâu sắc, tinh thần cộng đồng và đạo lý sống. Trong đời sống hiện đại hôm nay, khi mà các trào lưu văn hóa ngoại lai du nhập mạnh mẽ, nguy cơ đánh mất hoặc làm phai nhạt các giá trị văn hóa truyền thống ngày càng hiện hữu. Vì thế, việc giữ gìn và phát huy các giá trị ấy không chỉ là trách nhiệm mà còn là quyền lợi của mỗi công dân.
Gìn giữ văn hóa truyền thống trong xã hội hiện đại không có nghĩa là bảo thủ, khép kín, từ chối cái mới mà là biết cách chọn lọc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại trên nền tảng những giá trị cốt lõi của dân tộc. Điều đó giúp chúng ta phát triển bền vững mà không đánh mất bản sắc riêng. Ví dụ như Nhật Bản và Hàn Quốc – hai quốc gia hiện đại nhưng vẫn duy trì được nét truyền thống đặc sắc trong đời sống thường ngày, từ trang phục kimono, hanbok đến cách tổ chức lễ hội, nghi thức trà đạo hay cách ứng xử văn hóa. Việt Nam cũng có quyền và khả năng làm điều tương tự.
Việc bảo vệ văn hóa truyền thống không chỉ là nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước hay tổ chức văn hóa mà là trách nhiệm chung của mỗi cá nhân. Mỗi người có thể bắt đầu từ những hành động đơn giản: sử dụng tiếng Việt chuẩn mực, tôn trọng phong tục tập quán, tham gia các lễ hội truyền thống, giữ gìn làng nghề thủ công, học hỏi ca dao, tục ngữ, truyện cổ… Người trẻ ngày nay cần chủ động tìm hiểu cội nguồn, lịch sử dân tộc để nuôi dưỡng lòng tự hào và ý thức giữ gìn bản sắc.
Tuy nhiên, cũng cần thừa nhận rằng việc gìn giữ văn hóa truyền thống đang gặp không ít thách thức. Một bộ phận người trẻ xem nhẹ các giá trị truyền thống, chạy theo những trào lưu phi văn hóa, thậm chí lai căng và lệch chuẩn. Không ít di sản vật thể và phi vật thể đang mai một, biến mất do thiếu sự bảo tồn, đầu tư đúng mức. Thêm vào đó, quá trình đô thị hóa, hiện đại hóa đôi khi thiếu kiểm soát cũng góp phần làm tổn thương những giá trị xưa cũ.
Để khắc phục tình trạng đó, cần có sự chung tay của toàn xã hội, từ việc giáo dục văn hóa truyền thống trong học đường, đầu tư bảo tồn các di sản, phát triển du lịch văn hóa, cho đến việc đưa giá trị truyền thống vào đời sống hiện đại một cách sáng tạo, gần gũi. Các phương tiện truyền thông, nghệ thuật cũng cần góp phần tích cực quảng bá, làm sống lại tinh thần dân tộc trong mỗi con người.
Tóm lại, trong bất kỳ thời đại nào, văn hóa truyền thống luôn có giá trị trường tồn. Giữ gìn và bảo vệ nó chính là giữ gìn bản sắc, linh hồn của dân tộc. Trong guồng quay của xã hội hiện đại, hãy để những giá trị xưa cũ trở thành nền tảng vững chắc, soi sáng con đường phát triển tương lai mà không bị lẫn lộn giữa muôn màu văn hóa của thế giới. Đó không chỉ là hành động tri ân quá khứ, mà còn là cách để khẳng định bản lĩnh và niềm tự hào dân tộc hôm nay.
Trong bài thơ Chân quê của Nguyễn Bính, nhân vật “em” hiện lên với vẻ đẹp mộc mạc, giản dị, mang đậm nét truyền thống của người con gái thôn quê. “Em” vốn gắn bó với những giá trị chân chất: áo tứ thân, yếm lụa sồi, khăn mỏ quạ hay quần nái đen cùng với giọng nói nhẹ nhàng, thẹn thùng. Hình ảnh ấy thể hiện một vẻ đẹp thuần khiết, gần gũi với làng quê Việt Nam. Tuy nhiên, trước sự ảnh hưởng của lối sống thị thành, “em” bắt đầu thay đổi: mặc áo cài khuy bấm, khăn nhung, quần lĩnh. Những thay đổi ấy khiến người “anh” – người trữ tình – tiếc nuối và trách nhẹ, bởi “em” đã mất đi cái duyên ngầm mộc mạc ngày xưa. Qua đó, Nguyễn Bính không chỉ thể hiện tình cảm yêu mến, trân trọng vẻ đẹp chân quê mà còn ngầm phê phán sự lai căng, chạy theo cái đẹp hình thức mà quên đi cốt cách dân tộc. Nhân vật “em” là hình ảnh ẩn dụ cho sự giao thoa giữa truyền thống và hiện đại, đồng thời gửi gắm nỗi niềm hoài cổ và lòng yêu quê hương sâu sắc của nhà thơ.
Chân quê như một lời tâm sự, một lời nhắn gửi đầy yêu thương về việc gìn giữ vẻ đẹp truyền thống, sống đúng với bản chất giản dị, chân thật của con người quê hương.
Biện pháp tu từ : ẩn dụ
Tác dụng :
-Tăng sức gợi hình gợi cảm cho câu thơ.
-Thể hiện cảm xúc của tác giả một cách nhẹ nhàng, xót xa đầy nỗi buồn khi nhận ra sự thay đổi trong người con gái sau chuyến đi tỉnh.
-Qua đó nhắc nhở về việc gìn giữ những giá trị đẹp đẽ của làng quê và con người chân chất.
Các loại trang phục trong bài thơ :
- Khăn nhung, quần lĩnh, áo cài khuy bấm : là những loại trang phục khi “ em đi tỉnh về ” - đại diện cho lối sống thành thị, sự thay đổi gắn với sự làm dáng trưng diện, phần nào rời xa gốc gác và khác biệt so với vẻ đẹp chân quê ban đầu của người con gái nông thôn.
•Những trang phục truyền thống, quê mùa, giản dị mà tác giả yêu thích - đại diện cho nét đẹp thuần khiết, chân chất của người phụ nữ quê, cho những giá trị truyền thống mà nhà thơ trân trọng và muốn giữ gìn :
-Yếm lụa sồi
-Áo tứ thân
-Khăn mỏ quạ
-Quần nái đen
Nhan đề “ Chân quê ” gợi cho em liên tưởng đến hình ảnh nông thôn, quê hương. Chân quê là cái gốc gác của quê hương. Đó còn là vẻ đẹp mộc mạc, bình dị của vùng thôn quê, của những người con vùng quê. Có lẽ tác giả rất yêu cái đẹp và mong muốn gìn giữ quê hương nên đã không ngần ngại đặt hai từ “Chân quê” cho tác phẩm của mình.
Thể thơ: Tự do.