

Vũ Phan Hà Anh
Giới thiệu về bản thân



































Trong kho tàng tục ngữ Việt Nam, câu nói “Giấy rách phải giữ lấy lề” là một lời răn dạy sâu sắc về đạo đức và nhân cách con người. Câu tục ngữ không chỉ mang nghĩa đen mà còn gửi gắm một bài học lớn lao về việc giữ gìn phẩm giá, đạo lý trong mọi hoàn cảnh.
“Giấy rách” là hình ảnh tượng trưng cho hoàn cảnh khó khăn, nghèo đói, bất hạnh. “Giữ lấy lề” nghĩa là vẫn giữ được nề nếp, khuôn phép, phẩm hạnh dù hoàn cảnh có éo le. Như vậy, câu tục ngữ khuyên con người dù trong hoàn cảnh nào cũng phải giữ gìn nhân cách, lòng tự trọng, đạo đức và truyền thống tốt đẹp của mình.
Trong cuộc sống, không ai tránh khỏi những lúc rơi vào hoàn cảnh ngặt nghèo. Tuy nhiên, chính trong những thời điểm ấy, phẩm chất con người mới được thử thách rõ ràng nhất. Người giữ được đạo đức, lối sống ngay thẳng khi gặp khó khăn mới là người có bản lĩnh. Có những người vì nghèo mà sa ngã, đánh mất nhân cách, nhưng cũng có những người “giấy rách” nhưng vẫn “giữ lấy lề”, giữ trọn đạo làm người, không vì thiếu thốn mà trở nên gian dối, xảo trá.
Lịch sử dân tộc ta cũng chứng kiến bao tấm gương sáng về đạo đức, lòng trung thực dù trong hoàn cảnh gian nan nhất. Cụ Nguyễn Hữu Cảnh khi nghèo đói vẫn không làm điều xấu. Nhà chí sĩ Phan Bội Châu, dù trong lao tù, vẫn giữ khí tiết, không khuất phục. Trong đời sống hiện đại, tinh thần đó vẫn rất cần thiết, nhất là khi xã hội đang đối mặt với nhiều cám dỗ vật chất. Giữ phẩm giá không chỉ là giữ gìn cho bản thân mà còn tạo dựng niềm tin cho người khác, góp phần xây dựng xã hội lành mạnh.
Bản thân em cũng học được nhiều điều từ câu tục ngữ ấy. Trong học tập, khi gặp khó khăn, em không nên gian lận mà phải nỗ lực vượt qua. Trong cuộc sống, dù nghèo hay giàu, mỗi người đều nên sống tử tế, ngay thẳng và có trách nhiệm. Đó chính là cách mỗi chúng ta “giữ lề” cho mình và cho xã hội.
Tóm lại, “Giấy rách phải giữ lấy lề” là lời nhắc nhở quý giá về việc giữ gìn phẩm chất đạo đức trong mọi hoàn cảnh. Nó không chỉ thể hiện truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc Việt Nam mà còn là giá trị sống mà mỗi người cần ghi nhớ và thực hành.
Câu 1. Ngôi kể thứ ba – người kể chuyện không xưng “tôi” nhưng vẫn đi sâu vào tâm trạng, suy nghĩ của nhân vật Thứ.
Câu 2.Cuộc sống của người trí thức như Thứ trước Cách mạng tháng Tám rất nghèo túng, tù túng, bế tắc, luôn bị nỗi lo cơm áo đè nặng, khiến những lý tưởng và tài năng bị mai một, không có điều kiện phát triển.
Câu 3. Câu cảm thán thể hiện nỗi đau đớn, bất lực và tiếc nuối sâu sắc trước sự hi sinh vô ích của con người nếu xã hội vẫn còn bị trói buộc bởi cái đói, cái rét. Qua đó, câu văn nhấn mạnh thân phận khổ đau và ước mơ chưa thành của những người có lý tưởng sống cao đẹp.
Câu 4. Văn bản thể hiện bi kịch tinh thần của người trí thức tiểu tư sản trước Cách mạng tháng Tám – những người có lý tưởng sống cao đẹp nhưng bị cuộc sống mưu sinh chật vật làm mòn mỏi, mất phương hướng.
Câu 5. Nhân vật Thứ được xây dựng với chiều sâu nội tâm phong phú, giàu trăn trở, lý tưởng sống cao đẹp nhưng lại mâu thuẫn giữa ước mơ và hiện thực. Qua đó, Nam Cao thể hiện sự cảm thông và phê phán nhẹ nhàng đối với sự bất lực, yếu đuối của một lớp trí thức sống trong hoàn cảnh ngột ngạt trước Cách mạng.
Câu 1. Ngôi kể thứ ba – người kể chuyện không xưng “tôi” nhưng vẫn đi sâu vào tâm trạng, suy nghĩ của nhân vật Thứ.
Câu 2.Cuộc sống của người trí thức như Thứ trước Cách mạng tháng Tám rất nghèo túng, tù túng, bế tắc, luôn bị nỗi lo cơm áo đè nặng, khiến những lý tưởng và tài năng bị mai một, không có điều kiện phát triển.
Câu 3. Câu cảm thán thể hiện nỗi đau đớn, bất lực và tiếc nuối sâu sắc trước sự hi sinh vô ích của con người nếu xã hội vẫn còn bị trói buộc bởi cái đói, cái rét. Qua đó, câu văn nhấn mạnh thân phận khổ đau và ước mơ chưa thành của những người có lý tưởng sống cao đẹp.
Câu 4. Văn bản thể hiện bi kịch tinh thần của người trí thức tiểu tư sản trước Cách mạng tháng Tám – những người có lý tưởng sống cao đẹp nhưng bị cuộc sống mưu sinh chật vật làm mòn mỏi, mất phương hướng.
Câu 5. Nhân vật Thứ được xây dựng với chiều sâu nội tâm phong phú, giàu trăn trở, lý tưởng sống cao đẹp nhưng lại mâu thuẫn giữa ước mơ và hiện thực. Qua đó, Nam Cao thể hiện sự cảm thông và phê phán nhẹ nhàng đối với sự bất lực, yếu đuối của một lớp trí thức sống trong hoàn cảnh ngột ngạt trước Cách mạng.
Question 1:
=> I think robots can’t replace the role of teachers in education.
Question 2:
=> People will still send letters to each other in 2050.
Question 1:
=> He asked the villagers how often earthquakes occurred in that region.
Question 2:
=> They told me that I could find a wide range of beauty products in their store.
Floods are a common natural disaster in Viet Nam, especially in the central region. They usually happen during the rainy season, from September to November. Heavy rain causes rivers to rise and overflow, flooding villages and farmlands. Many houses are damaged, and people often have to move to safer places. Floods also affect transportation and food supply. However, the government and local people work together to prepare and respond quickly. They build dikes, store food, and rescue those in danger. Despite the damage, Vietnamese people are strong and always help each other during hard times.
“Khoan dung là đức tính đem lợi cho cả ta và người khác.” Câu nói của Pierre Benoit nhấn mạnh tầm quan trọng và giá trị của lòng khoan dung – một phẩm chất cần thiết trong cuộc sống. Khoan dung không chỉ là tha thứ cho lỗi lầm của người khác mà còn là sự mở lòng, đồng cảm và yêu thương.
Trước hết, khoan dung mang lại lợi ích cho người khác. Khi được tha thứ, con người có cơ hội sửa chữa lỗi lầm, hoàn thiện bản thân. Khoan dung giúp duy trì mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người, xây dựng sự đoàn kết, gắn bó trong cộng đồng. Nếu ai cũng chấp nhất, ích kỷ, thì xã hội sẽ đầy mâu thuẫn và căng thẳng.
Không chỉ giúp người khác, khoan dung còn mang lại lợi ích cho chính bản thân ta. Tha thứ giúp lòng người thanh thản, tránh được những cảm xúc tiêu cực như oán giận, thù hằn. Người biết khoan dung thường sống vui vẻ, nhẹ nhõm và được người khác yêu quý. Tha thứ cho người cũng là cách giải thoát chính mình.
Tuy nhiên, khoan dung không phải là dung túng cho cái xấu. Phải biết phân biệt giữa tha thứ với buông xuôi, giữa bao dung với nhu nhược. Khoan dung cần đi cùng sự tỉnh táo, nhằm giúp người khác nhận ra và sửa đổi, chứ không phải làm ngơ trước lỗi lầm.
Trong cuộc sống, chúng ta bắt gặp nhiều tấm gương về lòng khoan dung: người mẹ tha thứ cho con, bạn bè bỏ qua lỗi lầm, dân tộc Việt Nam bao dung sau chiến tranh để xây dựng hòa bình. Những ví dụ ấy cho thấy khoan dung là nguồn sức mạnh lớn lao, làm cho xã hội tốt đẹp hơn.
Tóm lại, khoan dung là đức tính quý báu, mang lại lợi ích cho cả người cho và người nhận. Hãy sống khoan dung để tâm hồn luôn thanh thản và lan tỏa yêu thương trong cuộc sống.
Câu 1.
Vẻ đẹp của nỗi nhớ trong bài thơ “Tây Tiến” và cách nỗi nhớ ấy chi phối toàn bộ cấu trúc và cảm hứng nghệ thuật của tác phẩm.
Câu 2.
Luận điểm của đoạn (1):Việc Quang Dũng lược bỏ chữ “nhớ” trong nhan đề bài thơ không chỉ để tránh thừa mà còn để mở rộng tầm nghĩa và tăng tính khái quát, từ đó làm nổi bật vẻ đẹp kiêu hùng và toàn cảnh của đoàn quân Tây Tiến.
Câu 3.
a. Thành phần biệt lập: dường như là thành phần tình thái.
b. Kiểu câu: Câu văn in đậm thuộc kiểu câu cảm thán (thể hiện cảm xúc ngỡ ngàng, ngưỡng mộ đối với ngôn ngữ thơ).
Câu 4.
Mối quan hệ giữa luận điểm, lí lẽ và bằng chứng trong đoạn (2):
-Luận điểm: Nỗi nhớ trong “Tây Tiến” được biểu đạt bằng những từ ngữ đặc biệt, ám ảnh.
-Lí lẽ: Các từ như “nhớ chơi vơi”, “nhớ ôi” thể hiện trạng thái cảm xúc sâu sắc, khó tách bạch giữa người và cảnh.
-Bằng chứng: Phân tích cụ thể các câu thơ: “Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”, “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói…”, cho thấy sự độc đáo trong cách dùng từ để thể hiện nỗi nhớ.
Câu 5.
Thể hiện sự trân trọng, yêu mến và xúc động sâu sắc trước vẻ đẹp của nỗi nhớ được thể hiện trong bài thơ “Tây Tiến”. Đồng thời, tác giả thể hiện cái nhìn ngưỡng mộ và thấm thía trước tài năng nghệ thuật của Quang Dũng.
Câu 6.
Trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu, câu thơ “Nhớ gì như nhớ người yêu/ Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương” đã khắc họa nỗi nhớ sâu nặng, da diết mà đầy lãng mạn. Nỗi nhớ ấy không chỉ dành cho cảnh sắc núi rừng mà còn thấm đẫm tình người, tình kháng chiến. Hình ảnh trăng, nắng như nhuộm vàng ký ức, làm nỗi nhớ trở nên lung linh, thi vị. Qua đó, ta cảm nhận được một tâm hồn trữ tình, thủy chung và tha thiết với quá khứ.